Cuốn Vương Ở Thập Niên 60[ Mang Theo Một Xe Vật Tư Nuôi Gia Đình Ở Thập Niên 60] - Chương 37
Cập nhật lúc: 24/12/2025 00:05
"Huy động hết phụ nữ có thể đào củ sen trong thôn đi đào củ sen. Ngoài những người đi đắp đê hàng ngày, số còn lại đều phải đi tích nước. Lấp kín hết mương thoát lũ lại cho tôi, không được để nước chảy sang đại đội Kiến Thiết." Trưởng thôn già ra lệnh: "Còn nữa, các hồ chứa nước phía trên, cái nào tích được nước thì tích, lấp hết mọi chỗ rò rỉ lại!"
Thôn Hứa gia có địa hình giống con thuyền, lại rất rộng, nên đầu thôn, giữa thôn và cuối thôn đều có một hồ nước lớn. Nước trong hồ là nước lưu thông. Hồ đầu thôn hứng nước mưa từ khe núi đổ về, chảy qua mương nhỏ vào thôn cho người dân giặt giũ rửa rau, rồi đổ thẳng vào hồ giữa thôn.
Hồ giữa thôn không chỉ nhận nước từ hồ trên chảy xuống mà còn giống hồ cuối thôn, hứng nước mưa của cả thôn Hứa gia vào những ngày mưa. Nước từ hồ cuối thôn lại theo mương chảy xuống tưới tiêu cho đồng ruộng phía dưới.
Ngày thường nước ba hồ luôn lưu thông, sạch sẽ, nhưng lúc này không thể để nước chảy đi nữa, phải lấp lại giữ nước.
Đại đội trưởng Hứa đáp: "Năm ngoái con đã cho người lấp hồ cuối thôn rồi."
Lúc này bí thư đại đội (Giang đại thư ký) cũng cảm thấy có điều không ổn. Thấy người thôn Hứa gia cả Tết cũng lăn lộn ngoài bãi sông đào củ sen, ông cũng muốn tổ chức cho người thôn Giang gia đi đào. Nhưng ông lại vướng nhiệm vụ thực hiện chính sách cấp trên, mà chính sách chủ đạo năm ngoái và năm nay là triển khai toàn diện mô hình nhà ăn tập thể. Hậu quả là người thôn Giang gia tuy đông nhưng làm việc chẳng tích cực chút nào.
Người thì đi đông đấy, nhưng số củ sen cả đám đào được còn chẳng bằng một nửa số củ sen một người phụ nữ thôn Giang gia tự đào về nhà.
Bí thư đại đội tức nổ phổi mà chẳng làm gì được, dù sao cũng vớt vát được chút lương thực cho nhà ăn thôn Giang gia.
Chế độ nhà ăn tập thể lúc này thường quy định 15 đến 50 hộ mở một nhà ăn. Thôn Giang gia và thôn Hứa gia đều là thôn lớn hơn 150 hộ, nên mỗi thôn tự tổ chức nhà ăn riêng.
Khó khăn trong công việc còn thể hiện ở việc đào đập chứa nước phía trên ba thôn Thi, Hồ, Vạn.
Vị trí đập này nằm ngay chân núi phía trên ba thôn nhỏ đó, lại rất xa thôn Giang gia. Dù đập có đào xong thì thôn Giang gia cũng chẳng được hưởng lợi gì, vì nước ăn nước dùng của họ lấy từ sông Trúc Tử. Thế nên người chi lớn thôn Giang gia bị phái đi đào đập làm việc cực kỳ uể oải.
Chi lớn thôn Giang gia vốn đã nhiều kẻ lêu lổng, giờ lại thêm chế độ ăn chung "làm nhiều làm ít đều ăn như nhau", người chăm chỉ cũng bị kẻ lười biếng kéo cho lười theo.
Đằng nào cũng không c.h.ế.t đói, tội gì phải bán mạng làm việc? Lại còn làm việc cho thôn khác chứ không phải thôn mình.
Thế là xảy ra cảnh tượng: Người ba thôn Thi, Hồ, Vạn hì hục đào đất, còn người chi lớn thôn Giang gia làm được một tí là ngồi phịch trên bờ đập phơi nắng, nghỉ ngơi.
Kéo theo đó, tinh thần làm việc của lao động ba thôn kia cũng xuống dốc không phanh.
Đến khi đại đội trưởng Hứa dẫn người thôn Hứa gia đào đủ củ sen, tích đủ nước xong xuôi, quay lại kiểm tra đập chứa nước...
Đào cả mùa đông mà cái đập vẫn chưa đâu vào đâu!
Đại đội trưởng Hứa tức điên người, c.h.ử.i ầm lên: "Có tí việc cỏn con mà mấy thôn làm mãi không xong! Chúng mày có phải đàn ông không đấy? Có cần cởi quần ra cho tao xem bên dưới có hai lạng thịt thừa không hả!"
Ông c.h.ử.i rất tục, nhưng đám người thôn Giang gia bị c.h.ử.i chỉ biết cúi gằm mặt không dám ho he.
Đại đội trưởng Hứa thực sự phát điên rồi.
Năm nay thời tiết thế nào đám người này không biết sao? Dám lười biếng ngay cả việc quan trọng như đào đập chứa nước. Ông lập tức đi tìm bí thư đại đội, túm lấy ông này mà phun một tràng, nước miếng b.ắ.n đầy mặt bí thư: "Từ mùa đông năm ngoái đến giờ chỉ mưa lất phất hai trận, đất chưa kịp ướt đã khô cong. Tình hình thế này mà các ông vẫn bình chân như vại à? Đập chứa nước không xong thì năm nay các ông lấy gì tưới ruộng!"
Bí thư đại đội cũng bực bội lắm. Ông đã sắp xếp người đi đào củ sen, đi đào đập, ai ngờ người thôn Giang gia lại kém cỏi thế, kéo chân ông vào lúc dầu sôi lửa bỏng này, trong khi ông còn bận tối mắt tối mũi với công tác tuyên truyền chính sách.
Dù sao ông cũng là cựu chiến binh, khác với kiểu giang hồ bặm trợn của đại đội trưởng Hứa. Tức thì tức nhưng vẫn phải tìm cách giải quyết, ông bất giác hỏi: "Vậy ông bảo phải làm sao bây giờ?"
Đại đội trưởng Hứa đang cơn tam bành, vung tay: "Làm sao thì mặc xác các ông!"
Bí thư đại đội nói: "Nói cho cùng, ông là chủ nhiệm sản xuất (trưởng đội sản xuất). Giờ đầu xuân rồi, sắp đến vụ cày bừa, ông không nghĩ cách thì ai nghĩ?"
"Cách tôi đã bày cho các ông rồi, các ông không chịu làm, chẳng lẽ bắt tôi bón cơm tận mồm à?" Đại đội trưởng Hứa tức nổ đom đóm mắt.
Đại đội trưởng Hứa nói mặc kệ là mặc kệ thật, nhưng bí thư đại đội không thể buông xuôi. Ông triệu tập các đội trưởng thôn nhỏ và kế toán đại đội lại để bàn bạc.
Thôn Giang gia có nhiều người biết chữ hơn chút. Kế toán đại đội là người thôn Giang gia (Kế toán Giang), ngoài ra còn hai thanh niên từng học trung học cơ sở cũng được gọi đến. Bí thư đại đội yêu cầu họ cùng "hợp mưu hợp sức" tìm cách giải quyết vấn đề nhức nhối hiện nay: ăn chung nồi cơm to khiến kẻ lười ỷ lại, người chăm chán nản, kéo cả đại đội đi xuống.
"Chính sách là tốt, nhằm giải phóng phụ nữ khỏi việc nhà để tập trung sản xuất nông nghiệp. Nhưng khâu thực hiện đang có vấn đề, khiến một số đồng chí lợi dụng tập thể để trục lợi, lười biếng, làm ảnh hưởng đến những người tích cực. Hành vi này dứt khoát không thể chấp nhận được, phải phê bình kiểm điểm!"
Chuyện phê bình đấu tố không phải đợi đến những năm 60 mới có, thực ra từ năm 52 đã bắt đầu có người bị cách chức, bức t.ử vì chuyện này, chỉ là chưa đến mức cực đoan như mấy năm sau thôi.
Bí thư đại đội ngồi ở vị trí chủ tọa, nói: "Đầu xuân đến giờ trời không mưa, cứ làm ăn kiểu này thì hỏng hết. Chúng ta phải trừng phạt những con sâu làm rầu nồi canh trong tập thể, để họ biết rằng làm nhiều ăn nhiều, không làm thì nhà ăn không có phần!"
"Mời các đồng chí đến đây để cùng bàn kế sách, làm sao dập tắt luồng gió độc này, giúp quần chúng đoàn kết hơn, chăm chỉ hơn, dồn hết sức lực hữu hạn vào sự nghiệp sản xuất nông nghiệp vô hạn!"
Mọi người đổ dồn ánh mắt về phía đại đội trưởng Hứa. Ông ném bút cái "cạch" xuống bàn: "Nhìn tôi làm gì? Hỏi tôi thì chỉ có cách đánh! Đánh một trận không được thì bỏ đói! Không làm mà đòi có ăn à? Tôi cho ăn c*t!"
Bí thư đại đội bó tay với thói thô lỗ của ông ta, cũng chẳng trông mong gì, bèn quay sang hỏi những người khác, đặc biệt là kế toán Giang và hai thanh niên có học. Ông gọi họ đến họp cũng là muốn bồi dưỡng thế hệ trẻ trong thôn.
Kế toán Giang không hổ danh người làm sổ sách, nói: "Vấn đề nằm ở chỗ làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít. Hiện tại không làm cũng ăn bằng người làm, người chăm chỉ tất nhiên thấy bất công."
Đại đội trưởng Hứa hừ mũi: "Nói thừa!"
Kế toán Giang cười cười không giận: "Nên ý kiến của cháu là: Ghi chép lại khối lượng công việc của từng người. Ai làm nhiều thì khi chia cơm được múc nhiều hơn, ai làm ít thì múc ít đi."
"Thế thì những người khác không đồng ý đâu," Đội trưởng thôn Thi cau mày, "Giờ đâu đâu cũng tuyên truyền 'ăn no căng bụng, dốc sức sản xuất', anh không cho họ ăn no thì họ lấy sức đâu mà làm?"
Một thanh niên lên tiếng: "Mọi người xem thế này được không? Lấy ví dụ việc đào củ sen, ai đào được bao nhiêu cân, chúng ta ghi cho họ bấy nhiêu phiếu. Đến bữa ăn, họ mang phiếu ra nhà ăn đổi, ăn bao nhiêu trừ bấy nhiêu. Thế thì hết đường kêu ca nhé?"
Mắt bí thư đại đội sáng lên: "Tôi thấy ý kiến này hay đấy! Tự mình làm ít, ghi ít, đổi được ít đồ ăn, thế thì còn kêu ca nỗi gì."
"Thế còn những việc khác thì sao? Đắp đê, cày bừa vụ xuân sắp tới, đâu có tính bằng cân lương thực được?" Đội trưởng thôn Thi thắc mắc.
Điểm này không làm khó được thanh niên thôn Giang gia. Cậu ta lấy ra một tờ phụ san "Công tác nông thôn" và mấy tờ báo: "Đây là bài báo về việc thực hiện 'khoán định mức và bình công chấm điểm' của một hợp tác xã năm ngoái." Cậu ta chỉ vào một bài báo trang nhất: "Lão lãnh đạo đã có chỉ thị về bài báo này, nói có thể để các nơi tham khảo. Chúng ta ngại gì không thử tham khảo cách 'khoán định mức và bình công chấm điểm' của họ?"
Bài báo giải thích rất chi tiết về cách bình công chấm điểm.
Thực ra từ khi bắt đầu hợp tác hóa nông nghiệp, nhiều nơi đã gặp phải tình cảnh khó khăn giống đại đội Lâm Hà. Mãi đến nửa cuối năm ngoái mới có hợp tác xã đưa ra sáng kiến "bình công chấm điểm" (ghi công điểm). Sau bài báo đó, các địa phương mới rục rịch học theo, bắt đầu chế độ ghi công điểm (công điểm chế).
Nhưng chế độ này không phải áp dụng đồng loạt ngay lập tức, mỗi nơi mỗi khác, đều đang trong quá trình mày mò.
Cậu thanh niên này sau khi đọc được tờ phụ san và báo thì như bắt được vàng, mua về cất kỹ, chưa cho ai xem.
Giờ là lúc cậu ta thể hiện.
Tất nhiên, cậu ta đưa ra ý kiến lúc này cũng có mục đích riêng.
Tốt nghiệp cấp hai, cậu ta muốn tìm việc trên thành phố nhưng không được, đành ngậm ngùi về quê. Đã được ăn học, cậu ta không cam tâm bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Tờ báo này đã nhen nhóm cho cậu ta một tia hy vọng.
Cậu ta nhắm đến vị trí "viên chức ghi công điểm" (kí công viên) được nhắc đến trong báo.
Chế độ chấm công điểm thực tế không phải chính sách bắt buộc từ trên xuống, mà chỉ là kinh nghiệm của một hợp tác xã được báo chí đưa tin và lãnh đạo khen ngợi, từ đó lan rộng ra cả nước.
Trong thôn vốn không có báo, bí thư đại đội muốn nắm bắt chính sách phải đợi lãnh đạo công xã đi họp trên huyện về phổ biến lại, rồi mới đến lượt ông triển khai xuống cơ sở.
Thời này thông tin và chính sách lan truyền chậm chạp như vậy đấy. Giống như chuyện cải cách mở cửa sau này, có nơi phát triển ầm ầm, có nơi vẫn ù lì theo nếp cũ cả chục năm trời.
Bí thư đại đội và cán bộ thôn ngày ngày chỉ biết dẫn dân đi đào sông đắp đê, trừ khi công xã gọi họp mới đi. Vì thế ông hoàn toàn không biết đến tờ phụ san này, cũng không biết bên ngoài đã bắt đầu rục rịch áp dụng "chế độ chấm công điểm". Đại đội Lâm Hà bị ngăn cách bởi núi sông, mùa đông nước cạn đi lại khó khăn, lại không có đài radio, nên thông tin càng mù mịt.
Sau khi bí thư đại đội và mọi người truyền tay nhau đọc bài báo, thấy lãnh đạo đã bật đèn xanh, ông quyết định: "Lão lãnh đạo đã nói làm được thì chúng ta cứ làm! Quy định mười điểm là công điểm tối đa (mãn công phân), làm không tốt thì trừ điểm. Dùng công điểm để đổi phiếu cơm (phiếu gạo), làm nhiều ăn nhiều!"
Tiếp theo là bàn bạc xem mười công điểm đổi được bao nhiêu phiếu cơm là hợp lý.
Về phần phiếu cơm thì dễ, trong thôn không nhiều người biết chữ, huy động mấy người biết chữ cắt giấy thành những mảnh nhỏ cỡ phiếu vải, phiếu thịt hiện hành. Trên mỗi tờ viết mệnh giá: "một lạng, hai lạng, ba lạng, năm lạng, tám lạng, một cân". Đóng dấu đỏ của đại đội bộ lên là có thể mang ra nhà ăn đổi cơm.
Một đại đội có vài nhà ăn, để tránh nhầm lẫn, họ quy định dùng màu mực khác nhau: mực xanh, mực đỏ, mực đen... tương ứng với từng nhà ăn. Tránh trường hợp cầm phiếu cơm thôn Hứa gia sang nhà ăn thôn Giang gia ăn chực.
Loại phiếu cơm này khác với phiếu lương thực do nhà nước phát hành có giá trị toàn quốc hoặc toàn khu vực, nó chỉ có giá trị nội bộ trong đại đội.
Thống nhất xong phương án, bí thư đại đội cho các đội trưởng về phổ biến với xã viên. Đồng thời, mỗi thôn phải bầu ra một viên chức ghi công điểm. Thôn Giang gia khỏi phải bàn, người được chọn chính là cậu thanh niên hiến kế "chế độ chấm công điểm". Thôn Hứa gia và ba thôn Thi, Hồ, Vạn còn lại thì phải về bầu lại.
