Cuốn Vương Ở Thập Niên 60[ Mang Theo Một Xe Vật Tư Nuôi Gia Đình Ở Thập Niên 60] - Chương 101:------
Cập nhật lúc: 29/12/2025 07:24
Về sau không còn ai dám lấy rắn ra dọa cô nữa.
Kẻ bị quất kia cũng bị đ.á.n.h đến ngây người, ôm lấy "hạ bộ" ngã lăn xuống mương thoát lũ. Mãi một lúc sau hắn vẫn không ngoi lên được, mọi người sợ hắn c.h.ế.t đuối trong mương Đại Hà – nước mương là nguồn nước ăn không thể để ô nhiễm – nên mới vội vàng nhảy xuống vớt hắn lên.
Chứng kiến cảnh đó, mọi người xung quanh bỗng rùng mình nhớ tới cái sân cắm đầy chông tre nhà Hứa Minh Nguyệt!
Hứa chủ nhiệm quả thật là hung hãn quá mức!
Thế này mà gọi là sợ rắn sao?
Nếu cô ta không sợ rắn thì còn hung hãn đến mức nào nữa?
Người phụ nữ như thế này, cho dù có làm quan to đến mấy cũng chẳng ai dám rước về. Ai mà dám lấy chứ?
Cô ta đ.á.n.h đàn ông con trai mà ra tay tàn nhẫn thế kia cơ mà!
Ai còn dám bảo cô ta sợ rắn, hắn sẽ nhét rắn vào quần kẻ đó cho biết tay!
* Từ khi nhìn thấy bốn tấm da sói ở nhà Hứa Minh Nguyệt, người thôn Hứa gia như phát điên, cứ thấy bầy sói là hú hét phấn khích lao vào. Đám sói sợ quá chạy trối c.h.ế.t lên núi, không dám bén mảng đến gần thôn, nhưng mỗi ngày vẫn cực chẳng đã phải mò xuống mương Đại Hà ở thôn Hứa để uống nước.
Sau này, có lẽ vì quá sợ dân làng thôn Hứa, chúng men theo lòng sông, đi về phía thành phố lân cận, đến khu vực Cửa Sông Bồ.
Để thuận tiện cho việc tưới tiêu, Phô Cửa Sông đã đào thêm ba con mương dọc và một con mương ngang từ sông Đại Hà.
Thú rừng trên núi, ngoài việc xuống uống nước ở mương Đại Hà thôn Hứa và mương thoát lũ thôn Giang, thì nơi chúng lui tới nhiều nhất chính là Phô Cửa Sông. Ở đó rộng lớn, hệ thống kênh rạch cũng nhiều.
Hứa đại đội trưởng nhìn thấy nhiều động vật đến uống nước như vậy thì mừng húm.
Hai năm nay, ngoài chút thịt được chia dịp Tết, ngày thường toàn ăn cháo lá sen khiến mặt ai nấy đều xanh như tàu lá chuối!
Giờ nhìn thấy thịt dâng tận miệng, sao có thể bỏ qua?
Ông dẫn theo tiểu đội dân binh Phô Cửa Sông lao vào chiến!
Đừng nói Hứa chủ nhiệm, ngay cả đám dân tị nạn nhìn thấy bầy sói, lợn rừng, mắt ai nấy cũng sáng rực lên như đèn pha ô tô.
Ban đầu họ còn sợ bầy sói, vì một con sói thì dễ đối phó, nhưng cả một đàn sói lại là cơn ác mộng.
Nhưng bầy sói cũng ngàn vạn lần không ngờ tới, vừa thoát khỏi hang hùm đại đội Lâm Hà và thôn Hứa gia, lại gặp phải bầy sói đói khát khác dưới sự chỉ huy của Hứa chủ nhiệm "phát rồ".
Sau khi tổn thất thêm mấy con sói, bầy sói tởn đến già, không dám bén mảng đến thôn Hứa và Cửa Sông Bồ kiếm ăn nữa. Chúng tránh xa hai cái ổ "bệnh thần kinh" này, đi đường vòng về phía bờ sông xa hơn hướng về thành phố lân cận.
Hứa chủ nhiệm thấy thời gian này thú rừng xuống núi nhiều, sợ đại đội Lâm Hà gặp nguy hiểm nên mỗi ngày đều phái một tiểu đội dân binh về canh gác các lối ra vào của đại đội.
Ngoài việc phòng ngừa thú dữ tấn công người, còn để đề phòng người của các đại đội khác và dân miền núi tràn xuống cướp bóc.
Mấy huyện thị trấn trực thuộc thành phố lân cận đã bị thổ phỉ từ nơi xa hơn cướp sạch sành sanh. Đám thổ phỉ này chỉ cướp của, không g.i.ế.c người, đ.á.n.h người ta u đầu chảy m.á.u, cướp được đồ là chạy biến vào rừng, tìm cũng không thấy tung tích.
Ai cũng biết đại đội Lâm Hà có lương thực, không cướp Lâm Hà thì cướp ai?
Người trong vùng cũng hiểu đạo lý "quả hồng mềm dễ nắn", họ không dám dây vào thôn lớn 700-800 dân như thôn Hứa và thôn Giang, bèn quay sang cướp bóc ba thôn Thi, Hồ, Vạn.
Gặp người thôn Giang thì giả vờ đáng thương, dập đầu xin ăn.
Gặp người thôn Hứa thì chẳng nói chẳng rằng, đi đường vòng cho lành.
Hứa chủ nhiệm yêu thương người dân đại đội Lâm Hà bao nhiêu thì sắt đá với người ngoài bấy nhiêu.
Anh có sắp c.h.ế.t đói, muốn uống một bát nước cơm của ông ấy, cũng phải làm việc cho ông ấy!
Việc ở Cửa Sông bồ làm mãi không hết!
Ngoài 6.000 mẫu đất ở Cửa Sông Bồ, ông còn khai hoang thêm mấy ngàn mẫu bãi bồi nữa.
Khoai lang, đậu nành thu hoạch từ số đất khai hoang thêm này, ông không nộp lên trên một hạt nào. Số nộp lên chỉ có hàng ngàn vạn cân khoai lang sản xuất từ nông trường Phô Cửa Sông, đây cũng là lý do ông có đủ lương thực để cưu mang nhiều dân tị nạn đến thế.
Không ai biết khi nào trời mưa, Hứa chủ nhiệm muốn tranh thủ lúc trời chưa mưa, mau ch.óng tu sửa xong đê đập và thủy lợi ở Cửa Sông Bồ, để 6.000 mẫu đất kia thực sự trở thành ruộng tốt lâu dài.
Dưới sự trợ giúp của hàng ngàn hàng vạn dân tị nạn, đến năm thứ ba của nạn hạn hán, cuối cùng hệ thống đê điều ở Cửa Sông Bồ và đại đội Lâm Hà cũng được xây dựng xong.
Hai con đê này vừa hoàn thành thì cũng đã là cuối năm 61. Ông trời rốt cuộc cũng trút xuống cơn mưa lớn đầu tiên sau ba năm đằng đẵng.
Cái gì gọi là "nắng hạn gặp mưa rào", chính là đây!
Suốt ba năm trời!
Củ sen ở sông Trúc T.ử bị đào đến tuyệt diệt!
Trai sông, ốc đồng trên bãi bồi sông Trúc T.ử bị ăn đến tuyệt chủng!
Người dân bao đời sống bên sông Đại Hà, ai có thể ngờ có ngày củ sen mọc hoang bạt ngàn lại bị đào sạch không còn mống nào để mọc lại? Ai có thể ngờ trai sông từng nhiều vô kể, dẫm một cái là thấy bốn năm con, có ngày lại bị người ta ăn đến tuyệt chủng?
Tất cả những gì ăn được đều bị ăn sạch, ngay cả rễ cỏ lau cũng bị đào lên ăn.
Cả bãi bồi sông Trúc T.ử bị đào bới nham nhở, chỗ nông chỗ sâu. Mãi đến mười mấy năm sau, những bãi bồi này vẫn là nơi nguy hiểm. Bởi vì không ai biết dưới lớp nước chỉ đến cổ kia, giây tiếp theo có phải là một cái hố sâu hoắm chực chờ nuốt chửng người ta hay không. Ngay cả trẻ chăn trâu cũng không dám cưỡi trâu xuống nước ở đây.
Khi những giọt mưa rơi xuống, rõ ràng đã là đầu đông lạnh giá, nhưng nhìn mưa rơi, vô số dân tị nạn sống sót nhờ bám trụ ở Cửa Sông Bồ đều bật khóc, quỳ rạp xuống bùn đất, dầm mưa vừa khóc vừa cười.
Rất nhiều người thân của họ đã c.h.ế.t đói trong trận thiên tai kéo dài ba năm này.
Nhiều dân tị nạn thậm chí không trụ nổi để đến được phía nam tỉnh, bỏ mạng dọc đường vì đói, vì khát, hoặc vì ăn quá nhiều đất quan âm (cao lanh) không đi vệ sinh được mà trướng bụng c.h.ế.t.
Nhiều người đến được phía nam tỉnh – nơi có nguồn nước, nhưng tình hình cũng chẳng khả quan hơn. Lương thực bị điều đi hết năm này qua năm khác khiến dân bản địa còn không sống nổi, c.h.ế.t đói vô số, nói gì đến việc chia sẻ cho dân tị nạn một miếng cơm.
Hứa Minh Nguyệt vẫn luôn để ý đến người bà ở thôn Ngô thuộc đại đội Hòa Bình. Không biết có phải do hiệu ứng cánh bướm khi cô xuyên đến hay không, mà ở thời không này, cả hai đại đội Hòa Bình và Kiến Thiết đều trồng xen canh khoai lang và đậu nành trên bãi bồi. Dù lương thực của họ cũng bị điều đi rất nhiều, nhưng nhờ số đậu và lạc thu được từ bãi bồi, người dân hai đại đội vẫn gian nan sống sót qua ngày.
Nhưng cũng chỉ là sống sót mà thôi.
Họ tuy không phải dân tị nạn từ nơi khác đến, nhưng tình cảnh cũng chẳng khá hơn là bao. Tệ hơn nữa là những thôn nhỏ như vậy thường xuyên bị dân tị nạn và người từ trong núi tràn ra cướp bóc, c.h.é.m g.i.ế.c.
Hứa Minh Nguyệt tận mắt chứng kiến sự gian nan của con người thời đại này, môi trường sống hiểm ác nhường nào. Ngoài việc chống chọi thiên tai, họ còn phải đối mặt với nhân họa.
Đến năm thứ ba của nạn hạn hán, dù thôn Hứa gia có tiểu đội dân binh canh gác, trai tráng trong thôn thay phiên tuần tra ngày đêm, nhưng cũng không tránh khỏi việc đụng độ với thổ phỉ từ trong núi ra.
Cũng may người thôn Hứa hung hãn có tiếng, đ.á.n.h nhau với thổ phỉ đến sứt đầu mẻ trán cũng không lùi bước nửa bước, nhờ đó mà thôn không chịu tổn thất gì đáng kể.
Số cồn I-ốt và bông băng Hứa Minh Nguyệt tích trữ suốt ba năm qua cuối cùng cũng có đất dụng võ.
Về nguồn gốc số cồn I-ốt, trước khi chị dâu sinh, cô đã đến bệnh viện thành phố lân cận dùng phiếu để đổi.
Từ một năm trước, sau khi hàng chục vạn, hàng trăm vạn cân lúa và khoai lang của đại đội Lâm Hà bị điều đi, Hứa Minh Nguyệt đã được thăng chức lên làm Ủy viên Đảng ủy công xã Thủy Phụ, kiêm chức Chủ nhiệm Hội phụ nữ nông trường Cửa Sông Bồ, từ cán bộ cấp 28 lên cấp 25.
Cấp bậc thăng lên đồng nghĩa với lương và phiếu cũng tăng theo. Lương và phiếu của cô ở cả đại đội Lâm Hà chỉ đứng sau Hứa chủ nhiệm ở nông trường Phô Cửa Sông.
Mọi người đều biết lương cô cao, phiếu nhiều, nhưng cụ thể bao nhiêu tiền, có những loại phiếu gì thì không ai rõ.
Phiếu có thời hạn, hết hạn không dùng là bỏ, nên chuyện cô mua trước cồn I-ốt và bông băng để ở nhà là hết sức bình thường.
Hơn nữa lọ cồn I-ốt đen sì, nhãn mác bị xé, nước bên trong cũng đen thui, bôi lên vết thương mọi người cũng chẳng phân biệt được là t.h.u.ố.c gì, tóm lại là t.h.u.ố.c nước.
Thời đại này nhiều loại t.h.u.ố.c nước đều đen sì như thế, chẳng ai nghi ngờ gì cả.
Có t.h.u.ố.c bôi vết thương là tốt rồi, ai quan tâm đó là t.h.u.ố.c gì chứ?
Còn về băng gạc, Hứa Minh Nguyệt nói không có thì cũng có, nói có thì cũng không.
Số băng gạc trong tủ t.h.u.ố.c của cô là loại băng cá nhân còn dư lại từ lần đưa Tiểu A Cẩm đi chơi bị ngã trầy da, đến trạm y tế cộng đồng băng bó. Khác với băng gạc cuộn thời này, nó hình vuông, chỉ có miếng gạc ở giữa, xung quanh là băng dính dán lên da. Lúc đó cô muốn mua thêm nhưng trạm y tế không cho.
Qua ba năm làm mới không gian, cô cũng chỉ tích được hơn ba mươi miếng. Ba năm qua hai mẹ con va quệt dùng bớt đi, giờ chỉ còn chưa đến 30 miếng.
Cô định dán loại băng này cho họ, nhưng người ta chê, bảo dán lên mặt trông như Hán gian (trên phim hay có hình tượng Hán gian dán cao ch.ó trên thái dương).
Hứa Minh Nguyệt đã đến đại đội Hòa Bình rất nhiều lần, chỉ sợ nhà bà nội xảy ra chuyện gì. Mỗi lần đến, cô đều lén để một túi đậu nành lên cửa sổ bếp nhà bà, rồi đứng từ xa ném hòn đá nhỏ vào cửa sổ báo hiệu.
Ban đầu cả nhà bà nội cứ tưởng có chàng trai nào để ý bà (lúc này bà còn trẻ) nên mới lén lút tiếp tế lương thực quý giá. Kết quả ba năm trời vẫn chưa tìm ra "chàng trai thầm thương trộm nhớ" ấy là ai.
Tìm quanh một vòng, ai nấy đều đói vàng mắt giống nhà bà, sống còn chả nổi, lấy đâu ra lương thực thừa mà cho?
Dù bãi bồi trồng được khoai lang năng suất nghìn cân mỗi mẫu, nhưng bị điều đi hơn nửa, phần còn lại chỉ đủ cầm hơi.
Ba năm hạn hán này, nông trường Cửa Sông Bồ dựa vào hơn 6.000 mẫu khoai lang, chỉ riêng số khoai bị điều đi đã lên đến hàng ngàn vạn cân. Số khoai này cứu sống bao nhiêu mạng người, nuôi sống bao nhiêu dân tị nạn bị xua đuổi dồn về đây, chỉ có chính những người trong cuộc mới thấu hiểu. Họ sống sót hoàn toàn nhờ vào số khoai lang và đậu nành mà Hứa chủ nhiệm cho trồng xen canh ở bãi bồi bên ngoài nông trường Cửa Sông Bồ. Dù ai nấy đói đến mức không ra hình người, nhưng ít nhất họ vẫn còn sống.
Rất nhiều người không kìm được cảm xúc, đứng giữa trời mưa mà nước mắt tuôn rơi.
Hứa chủ nhiệm nhìn trời rốt cuộc cũng đổ mưa, thở phào nhẹ nhõm. Cuối cùng trời cũng mưa, ông trời đã cho họ một con đường sống.
Nếu trời còn không mưa, ông cũng hết cách, sông Trúc T.ử cạn trơ đáy rồi.
Như để bù đắp cho ba năm hạn hán, cơn mưa này kéo dài suốt ba ngày mới tạnh.
Qua cơn xúc động, những người nông dân già nhìn mưa rơi không ngớt, vừa khóc vừa nói tiếng địa phương: "Thôi! Thôi! Thế này cũng được! Cuối cùng cũng mưa rồi! Mưa là tốt rồi!"
Nói xong lại lấy tay áo quệt nước mắt mà khóc.
Đê Cửa Sông Bồ đã đắp xong từ sớm. Con đê vừa cao vừa dài bao bọc c.h.ặ.t chẽ hơn 6.000 mẫu bãi bồi bên trong, ngăn dòng nước sông có thể dâng cao ở bên ngoài.
Trên doi đất cao tựa như sống lưng con rồng tre thẳng tắp dài hơn trăm mét gần thành phố lân cận, một kiến trúc xi măng sừng sững mọc lên như pháo đài cổ, trấn giữ yết hầu đường thủy từ Phô Cửa Sông thông sang thành phố.
Đoạn sông vốn chỉ dài hơn trăm mét bị bùn bồi lắng, nay đã được dân tị nạn đào sâu 3 mét, rộng gần 200 mét. Bùn đất đào lên được đắp sang hai bên bờ, khiến doi đất vốn cao nay càng thêm cao và dốc đứng.
Lúc này, rất nhiều dân tị nạn đang trú ẩn trong khu nhà cải tạo lao động - vốn được xây dựng làm nhà tù cho nông trường.
Khu nhà cực lớn, chiều dài và rộng ước chừng ba bốn trăm mét, kiến trúc kiểu tứ hợp viện, bốn mặt đều là phòng, giống như chữ "Hồi" (回) l.ồ.ng vào nhau. Lớp chữ "Khẩu" (口) bên trong toàn là nhà một tầng, lớp chữ "Khẩu" to bên ngoài đều là nhà hai tầng cao ráo. Tường ngoài cao chừng 6 mét. Bốn góc nhà tù cải tạo lao động đều có tháp canh cao sáu bảy mét, mục đích ban đầu là để canh gác, dễ dàng quan sát và phát hiện phạm nhân bỏ trốn.
Thực ra quy hoạch ban đầu của nhà tù nông trường Cửa Sông Bồ không lớn đến thế, nhưng do lượng dân tị nạn quá đông, lãnh đạo cấp trên biết nơi này có thể duy trì sự sống, lại không có lương thực cứu trợ nên đành dồn dân tị nạn về đây.
Dân quá đông, mùa xuân, hạ, thu còn đỡ, chứ mùa đông dù là mùa đông ấm thì cũng rất lạnh giá. Dân tị nạn không có chỗ ở, chỉ còn cách mở rộng quy mô nhà tù để chứa thêm người.
