Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 138: Sát Thai
Cập nhật lúc: 05/11/2025 07:07
Nicholas Quảng Khôn từng nói một câu danh ngôn thế này: Khi có quá nhiều sự trùng hợp xảy ra cùng lúc, thì đó không còn là trùng hợp nữa mà là số mệnh đã định sẵn.
Giờ đây, tôi và lão Dịch đang ngồi ngây ngốc trên giường trong phòng trọ, chờ đến giờ Sửu. Dù có mở tivi to hết cỡ thì vẫn không thể át được tiếng gào thét đầy “tâm huyết” của đôi nam nữ phòng bên. Thôi thì coi như nghe tấu hài cho đỡ buồn vậy.
Vì vừa rồi tôi đã cho lão Dịch uống ít nước rửa móng tay, nên giờ anh ta đã hoàn toàn tỉnh táo. Tôi ngẩng lên nhìn đồng hồ, hơn hai giờ khuya rồi, chẳng mấy chốc là có thể gặp được Cửu Thúc, để hỏi ông ấy xem nên xử lý con quỷ nhi kia và vụ Thạch Quyết Minh thế nào.
Nhắc đến Thạch Quyết Minh, tôi lại nhớ tới lúc tối, khi ba người chúng tôi ngồi uống rượu. Lúc đó, tôi đã hỏi thẳng:
“Anh Thạch à, tôi biết anh không phải là đệ tử của Lưu Hỉ. Rốt cuộc anh là ai?”
Thật ra, tôi cũng chẳng biết đối phương có phải hay không, chỉ giả vờ đoán trúng để dọa anh ta trong cơn say, mong moi được chút sự thật. Ai ngờ Thạch Quyết Minh lại hỏi ngược lại một câu:
“Lưu Hỉ...? Ông ấy là ai?”
Mẹ kiếp, lúc đó tôi mới chợt nhớ, trong suốt lúc kể chuyện, Thạch Quyết Minh chưa bao giờ gọi tên chú cả Lưu, toàn nói “lão ăn mày” hay “sư phụ” thôi.
Vì tôi cũng chỉ là nghi ngờ, chưa có bằng chứng, nên biết rằng giờ mà vạch mặt nhau là không khôn ngoan. Huống hồ tôi cũng chưa nói cho anh ta biết mối quan hệ giữa tôi với chú cả Lưu.
Còn chuyện Thạch Quyết Minh nói nào là “bạch ngọc chén” hay “bạch ngọc luân”, tôi chẳng biết thật giả ra sao. Nhưng nếu anh ta thực sự là người tốt thì sao? Khi ấy, chẳng phải tôi sẽ quê c.h.ế.t đi được à?
Không ngờ chiêu vừa rồi lại chẳng ăn thua, cơ hội moi lời thật xem như tiêu tan. Tôi đành khéo léo đ.á.n.h trống lảng, cười hề hề nói:
“Haha, không có gì đâu, Lưu Hỉ là... là người nhà họ Lưu ấy mà… anh chưa xem tivi à? Trong phim Xông Qua Quan Đông đó.”
Thạch Quyết Minh lắc đầu, thản nhiên đáp: “Chưa xem.”
Tôi vội vàng cầm chai bia, rót đầy lại ly cho cả hai, rồi nói lảng:
“Không xem cũng chẳng sao, nào, cạn thêm ly nữa đi.”
Cũng may là bao năm lăn lộn trên bàn rượu, tôi đã tập cho mình cái miệng dẻo như bún. Hồi còn ở ký túc xá đại học, mỗi lần uống với đám “thú vật” cùng phòng, rượu thì ít, đồ nhắm thì chẳng có, cả lũ toàn thi nhau giở mấy trò ghê tởm ra để hành nhau. Nào là kể chuyện đi vệ sinh gặp thứ gì đó mà không dội, nào là miêu tả xác trẻ con trương phình, giòi bò lổm ngổm... Ban đầu tôi cũng từng thua đau mấy lần, nhưng về sau, nhờ cái miệng lanh lợi, tôi luyện được tuyệt chiêu bất kể người khác nói gì, chỉ cần tôi mở miệng, lập tức có thể lái câu chuyện sang hướng khác.
Chẳng bao lâu, lão Dịch đã quay lại. Xem chừng tửu lượng vẫn chẳng khá hơn trước, mắt lờ đờ, vừa ngồi xuống đã nhe răng cười ngốc nghếch. Tôi nghĩ bụng xem ra trên bàn rượu chẳng moi được gì rồi, phải thử tên họ Thạch này trong thực chiến thôi.
Thế là tôi dìu lão Dịch đứng dậy, chào tạm biệt rồi rời khỏi đó.
Về đến nhà trọ, tôi pha một cốc nước rửa móng tay cho Dịch Hân Tinh uống để tỉnh người. Anh ta vừa tỉnh dậy liền hỏi:
“Thế nào, có dò được gì không?”
Tôi khẽ lắc đầu, thở dài: “Khó lắm.”
Sau đó bảo lão Dịch nghỉ ngơi một lát, còn mình thì bắt taxi về nhà, lấy mấy thứ cần thiết, trong đó có nước giếng và một ít bùa chú.
Sau khi quay lại nhà trọ, tôi và lão Dịch vẫn ngồi chờ đợi, đếm từng phút cho đến giờ Sửu. Không biết đã bao lâu, khi tôi hoàn hồn nhìn lại, kim đồng hồ đã chỉ sang ba giờ sáng. Tôi liền lấy ra chiếc gương nhỏ, bắt đầu bôi nước giếng lên mặt gương.
Một luồng khí u ám thoáng qua, Cửu Thúc dần hiện thân. Chỉ có điều, lần này ông đã thay đổi trang phục. Tuy vẫn là bộ đồ nha dịch cổ xưa, nhưng màu đen đã được đổi sang trắng, đầu còn đội thêm một chiếc mũ trắng nhỏ. Nhìn từ xa chẳng khác gì một người đầu bếp, nào thấy khí thế của âm sai. Chỉ có điều, cái cà vạt vô duyên quanh cổ ông thì vẫn giữ nguyên. Nhân đây nói thêm, cái cà vạt đó cũng có câu chuyện: lần trước tôi hỏi, Cửu Thúc bảo rằng ở “dưới kia” giờ chuộng phong cách “kết hợp Đông Tây, hòa trộn cổ kim”, nên trên bộ đồ truyền thống của âm sai mới gắn thêm cái thứ quái gở đó. Đúng là có một không hai.
Lão Dịch từng gặp Cửu Thúc một lần, nên vừa thấy ông xuất hiện liền cúi đầu, nở nụ cười nịnh nọt:
“Chào tiền bối, chào ngài, chào ngài ạ!”
Cửu Thúc vẫn giữ nguyên dáng vẻ như trước, ít nói ít cười, mà miệng toàn pha trò lạnh tanh. Ông chỉ khẽ gật đầu, rồi nhìn sang tôi, nói thẳng:
“Tiểu Phi, thấy hai đứa cùng ở đây, chắc lại có chuyện muốn nhờ ta phải không? Nói đi.”
Thẳng thắn, dứt khoát đúng là điểm tôi thích nhất ở ông già này.
Tôi lập tức nói:
“Đúng là không gì giấu được sư phụ. Người có biết đến thứ gọi là ‘quỷ anh’ không?”
Cửu Thúc khẽ gật đầu. Sau đó tôi kể lại đầu đuôi chuyện con quỷ nhỏ trong giếng, không bỏ sót chi tiết nào.
Ban đầu, Cửu Thúc vẫn tỏ ra bình tĩnh, vì so với những loại như Dạ Hồ hay Cực Âm Cực Sát, thì “quỷ anh” cũng chẳng phải thứ hiếm gặp. Nhưng khi nghe tôi nói đến việc cái xác đứa trẻ trong giếng lại mang hình dáng một đứa bé chừng bảy tám tuổi, sắc mặt ông lập tức thay đổi.
Cửu Thúc khẽ lắc đầu, nở một nụ cười cay đắng, rồi nói:
“Đệ tử của ta… sao con cứ toàn gặp những chuyện kỳ quặc, khó đối phó thế này hả?”
Tôi thoáng sững lại. Biết tính ông ấy không phải người dễ nói đùa. Nếu đã nói vậy, chứng tỏ đứa trẻ c.h.ế.t trong giếng kia tuyệt đối không phải loại hồn ma bình thường.
Tôi vội vàng hỏi:
“Con cũng đâu có muốn vậy đâu, sư phụ. Là Tạ Tất An với Phạm Vô Cứu dẫn con và lão Dịch đến ngôi trường đó, bảo rằng ở đó có manh mối về nữ quỷ bỏ trốn kia. Ai ngờ lại đụng phải thứ bẩn thỉu này. Hai đứa con đâu thể làm ngơ được. Sư phụ, con quỷ này khó đối phó lắm sao? Nó dữ lắm à?”
Cửu Thúc khẽ lắc đầu, rồi chậm rãi nói ra bản chất thật của cái gọi là quỷ anh. Như đã nói, quỷ anh chính là vong hồn của bào thai c.h.ế.t trong bụng mẹ. Thông thường, vì mới vừa đầu thai mà đã bị chính mẹ ruột g.i.ế.c c.h.ế.t, nên oán khí của chúng rất nặng. Tuy vậy, vì thân thể chưa thành hình, nên sức mạnh cũng có hạn, không gây hại lớn được. Hồn phách của chúng vốn là linh hồn đầu thai, mà linh hồn thì cũng chia ra nhiều loại. Người thường sau khi c.h.ế.t, hồn không thuộc ngũ sát, nên dù có biến thành quỷ anh cũng chẳng gây nên đại họa gì, nhiều lắm chỉ là quanh quẩn mấy năm rồi lại đi đầu thai tiếp.
Đáng sợ nhất là những quỷ anh được sinh ra từ linh hồn cực ác. Cái gọi là ‘cực ác chi hồn’ chính là chỉ những kẻ khi còn sống chỉ biết tạo nghiệp chứ không tu phúc: ăn chơi, cờ bạc, trộm cướp, lừa đảo, đ.á.n.h người tàn tật, mắng người câm, đạp cửa góa phụ, đào mồ tuyệt tự… Tóm lại là tội lỗi chồng chất, ác nghiệp không kể xiết. Những kẻ như thế, sau khi c.h.ế.t tất phải xuống mười tám tầng địa ngục, chịu khổ không biết bao nhiêu vạn năm. Đến khi gột sạch được tội nghiệt, mới có cơ hội đầu thai làm người. Trong lòng mừng rỡ, tưởng đâu được sống lại làm người tốt, ai ngờ vừa nhập thai thì bị phá bỏ trước khi tròn mười tháng. Đến mức ấy mà còn bị chặn đường sống, thì hận thù đó, ai mà chịu nổi chứ?
Lúc này, loại quỷ anh ấy được gọi là sát thai, hoặc thai đồng — chỉ nhìn tên đã biết không phải thứ tốt lành. Sát thai khác với quỷ anh bình thường ở chỗ nó gần như không còn cơ hội tái sinh, bởi oán khí của nó quá nặng; chẳng thua gì mấy thứ cực âm cực sát mà ta từng gặp. Sát thai sẽ hút tinh khí người thường để thành hình, lớn lên như một đứa trẻ bình thường; đến khi thành hình người thì từ hồn quỷ hóa thành yêu, trở nên hung dữ khôn lường, phá hoại cả một phương. Dĩ nhiên, khi đã thành hình, mục tiêu đầu tiên của nó thường là chính cha mẹ đẻ của mình.
Nhưng tỉ lệ sinh ra sát thai kiểu đó vốn rất thấp, khoảng chừng một phần hai trăm nghìn, nên từ xưa tới nay hiếm khi xảy ra. Cửu Thúc nói rằng từng nghe sư phụ Hàn Hữu kể lại: hồi Dân Quốc có vụ sát thai ở vùng Hà Nam, chuyện dữ lắm. Vì sát thai trước khi thành hình thì không biểu hiện rõ, đến khi có một thầy Bạch phái phát hiện thì đã muộn rồi. Nghe nói lúc ấy c.h.ế.t khá nhiều người. Ngoài gia đình đôi vợ chồng phá thai ra thì mười nhà hàng xóm lân cận cũng không thoát, không một ai sống sót; tất cả đều bị sát thai xẻo bụng, ăn hết nội tạng.
May mà đúng vào thời kỳ thầy âm dương rộ nhất, nên rất nhiều thầy Bạch phái đã tới để diệt con sát thai ấy. Phải biết rằng mấy ông thầy thời đó khác chúng tôi lắm, ai cũng kỳ cựu, tay nghề vững vàng, nhưng vẫn không cầm được sát thai, thậm chí còn bị nó hạ gục hai người. Cuối cùng có một vị thầy nghĩ ra cách: đặt bẫy dụ sát thai vào trong một cái bình, rồi lấy m.á.u ch.ó bôi lên cối đá, nghiền nó đến c.h.ế.t.
Mỗi lần nghe Cửu Thúc kể về bản chất mấy thứ bẩn thỉu mà mình vướng phải, tôi lại có cảm giác muốn đập đầu vào tường. C.h.ế.t tiệt, sao số tôi lại khổ thế này? Tới cả một đứa trẻ c.h.ế.t non cũng chẳng phải thứ dễ dàng xử lý.
Nhưng nhìn vào thì đứa trẻ đó có vẻ chẳng có mấy uy lực, ngoài việc không sợ nghiệp hỏa ra thì cũng chưa thấy nó có bao nhiêu sức chiến đấu, có lẽ vì chưa thành hình nên vậy. Nó cũng xui hết chỗ nói, chưa kịp thành hình đã gặp đúng tôi và lão Dịch. Nếu không nhân lúc nó còn yếu mà diệt trừ thì chẳng phải chúng tôi đã quá khách sáo rồi sao?
Thế là tôi quyết định phải làm cho ra lẽ. Hai thằng đàn ông trụ cột như bọn tôi sao lại bị vong hồn một đứa trẻ quấy rối mà sợ phát khiếp chứ? Tôi liền hỏi Cửu Thúc:
“Sư phụ, có cách nào lôi nó ra khỏi cái giếng rồi diệt luôn không?”
Cửu Thúc nghĩ một lát rồi đáp: “Có. Tuy sát thai rất hung hiểm nhưng xét về bản chất nó vẫn là trẻ con, dễ bị mấy thứ đồ chơi hay âm thanh vui vẻ dụ dỗ. Nếu quanh cái giếng mà phát ra tiếng đồ chơi náo nhiệt, rất có thể nó sẽ bò ra xem. Vấn đề là diệt nó không đơn giản. Phải rồi tiểu Phi, con có thanh kiếm đồng tiền nào không? Dùng kiếm đồng tiền kết hợp với một loại phù đặt trong lòng bàn tay thì có thể tiêu diệt được. Đáng tiếc cây kiếm làm từ một trăm hai mươi đồng xu của ta trước kia đã cho sư huynh của con rồi, mà thằng nhóc đó giờ cũng chẳng biết trôi dạt nơi nào.”
“Kiếm đồng tiền?” Tất nhiên là tôi có. Không chỉ có, tôi còn hay dùng nó để múa may ấy chứ. Phải công nhân, chú Văn - lão thần côn kia — đã giúp tôi rất nhiều. Lão già ấy không biết đồ của mình đã bị tôi mượn dùng, nhưng trong lòng tôi nghĩ thà dùng nó vào việc diệt yêu còn tốt hơn cho chú Văn để dưới gầm giường suốt ngày.
Vậy nên tôi gật đầu, nói với Cửu thúc: “Con có thể lo được. Sư phụ bảo còn cần thêm một loại phù nữa, đó là phù gì?”
Cửu Thúc nhìn tôi, như kiểm nghiệm thực lực, rồi nói: “Con tu đạo cũng bao năm rồi, với công lực hiện tại có thể dùng được loại phù này. Nghe cho rõ, loại phù ta muốn con xuất ra chính là ‘Kiếm Chỉ Phù’, được ghi tại trang 233 trong Tam Thanh Phù Chú.”
