Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 147: Mắt Lưu Linh Trong Quan Tài
Cập nhật lúc: 05/11/2025 07:09
Trong “Tấn thư – Liệt truyện quyển mười chín” có ghi chép: “Lưu Linh thân dài sáu thước, dung mạo cực xấu, phóng túng tùy tính, coi vạn vật trong thiên hạ như một thể với bản thân mình.”
Nói cho đúng thì Lưu Linh là một tửu đồ trứ danh thời cổ đại. Gọi ông ta là kẻ nghiện rượu có phần hơi nhẹ, bởi dù người chỉ cao có một mét năm chín, tướng mạo lại vô cùng khó coi, nhưng như người ta vẫn nói: “đàn ông có tài là có đức”. Dù vẻ ngoài nhếch nhác, Lưu Linh lại là người cực kỳ thông tuệ, một trong “Trúc Lâm thất hiền” vang danh thiên hạ.
Người này có một điểm nổi tiếng là sợ vợ. Thời nay sợ vợ đã gần như thành “mốt”, nhưng thời xưa, đàn ông mà sợ vợ lại là chuyện cực kỳ mất mặt. Lưu Linh ham rượu, còn vợ ông thì tuyệt đối không cho uống, mỗi lần thấy chồng say là lôi ra đ.á.n.h cho một trận. Đánh xong lại hỏi:“Còn dám uống nữa không?”
Lưu Linh liền cúi đầu nói không dám, còn hứa sẽ cấm rượu, thề trước thần linh. Người vợ nghe vậy thì mừng rỡ, vội chuẩn bị rượu thịt để tế thần. Nhưng khi bà ta vừa đi khỏi, Lưu Linh đã quỳ xuống trước tượng thần, miệng lẩm bẩm:“Trời sinh Lưu Linh, lấy rượu làm danh. Một hớp là một đấu, năm đấu là giải sầu. Lời đàn bà, chớ nên nghe.”
Nói xong, ông ta thản nhiên cầm rượu thịt trên bàn tế mà ăn uống ngấu nghiến, vô sỉ đến thế là cùng!
Đó là những gì tôi biết về Lưu Linh, một kẻ vừa kỳ quái vừa thông minh, vừa đáng giận vừa đáng cười. Nhưng điều khiến tôi thắc mắc là Thạch Quyết Minh nói chú Viên có “đôi mắt Lưu Linh”, rốt cuộc có nghĩa là gì?
Lưu Linh nằm trong quan tài, nghe chẳng khác nào xác sống trong mộ, phải chăng ý Thạch Đầu là “mắt cương thi” sao? Tôi lắc đầu. Không thể nào! Chẳng lẽ lại đến lượt “quỷ thổi đèn” bước ra đời thật rồi à?
Hơn nữa, những gì tôi vừa đoán nãy giờ đều là nghĩ vớ vẩn thôi, chẳng thà hỏi thẳng Thạch Quyết Minh xem rốt cuộc đôi mắt đó có ý nghĩa gì. Nhưng còn chưa kịp mở miệng, lão Dịch đã nhanh chân thắc mắc:
“Tôi nói này Thạch Đầu, cậu vừa bảo cái gì mà quan tài với Lưu Linh hút t.h.u.ố.c ấy? Rốt cuộc là có chuyện gì? Đừng có úp úp mở mở nữa, nói thẳng đi!”
Thạch Quyết Minh gật đầu, giải thích:
“Không phải Lưu Linh hút thuốc, mà là mắt Lưu Linh trong quan tài. Đây là một cách gọi trong thuật xem tướng người.”
Nói rồi, Thạch Quyết Minh bắt đầu giảng giải cho chúng tôi nghe cái gọi là ‘mắt Lưu Linh trong quan tài’ là gì. Thì ra, con người sinh ra vốn có vô số dạng mắt khác nhau, nhưng nếu phân loại tổng quát thì chia thành năm loại lớn, trong mỗi loại lớn ấy lại có tám mươi loại nhỏ, mà ‘mắt Lưu Linh trong quan tài’ chính là một biến thể đặc dị, hiếm thấy vô cùng.
Trong Tam Thanh Bốc Toán có ghi chép: “Lưu Linh trong quan tài trông hồn quy, hai mắt vừa mở là cả trời đen tối.” Đó chính là lời chú giải dành cho loại mắt này.
Nguồn gốc của tên gọi có một điển cố thế này: Tục ngữ có câu “Đỗ Khang nấu rượu, Lưu Linh say”, mà Lưu Linh đã say là say liền ba năm. Tương truyền, sau khi bị cách chức, Lưu Linh lang thang tới một ngôi làng nhỏ, thấy ở đó có một quán rượu chẳng có gì đặc biệt. Nhưng điều khiến ông ta chú ý là trước cửa quán treo một đôi câu đối: “Hổ dữ một chén say trong núi, Giao long hai chén ngủ dưới biển.”
Lưu Linh vừa đọc liền nổi giận: “Bốc phét vừa thôi chứ! Làm gì có thứ rượu nào ghê gớm đến vậy!” Thế là ông ta bước vào, gọi rượu uống. Chủ quán bảo: “Rượu này rất mạnh, một người mỗi tháng chỉ nên uống một chén. Uống quá nhiều sẽ say c.h.ế.t đấy.”
Lưu Linh không tin, bèn cạn luôn một vò đầy. Vừa nuốt xuống, ông ta đã cảm thấy đầu óc choáng váng, chân tay mềm nhũn, men rượu nặng đến mức đi còn không vững. Biết mình trúng độc rượu thật rồi, Lưu Linh vội chạy về nhà, nói với vợ: “Hôm nay chắc là tôi say đến c.h.ế.t mất thôi. Phu thê mình bao năm tình sâu nghĩa nặng, tôi chỉ xin bà một điều. Sau khi tôi c.h.ế.t, đừng chôn tôi trong quan tài. Hãy dùng một cái vò rượu lớn mà chôn tôi vào đất là được rồi.” Nói xong, ông trợn mắt, tắt thở, lên đường về cõi tiên.
Vợ của Lưu Linh mặc dù thương chồng lắm, nhưng vẫn làm theo di nguyện của ông. Bà tìm một cái vò rượu thật lớn, đặt t.h.i t.h.ể Lưu Linh vào trong, rồi đem chôn ở sườn núi sau nhà, từ đó thủ tiết ở vậy. Nào ngờ, bà không hề biết rằng, ông chủ quán rượu năm xưa chính là tửu tiên Đỗ Khang hóa thân mà thành, cố ý bán rượu cho Lưu Linh là để độ ông thành tiên. Thực ra, Lưu Linh không c.h.ế.t, mà chỉ say đến mê man bất tỉnh.
Khi ông tỉnh lại, mới phát hiện mình đã bị chôn dưới đất, toàn thân vẫn còn nồng nặc mùi rượu, dù tỉnh rồi cũng chẳng thoát ra được. Trong bóng tối đặc quánh ấy, ông chỉ còn biết c.ắ.n răng chịu đựng, chờ đợi một tia sáng mỏng manh le lói. Ba năm trôi qua, thân thể ông trong lòng đất dần “hóa rượu” như một vò hảo tửu được ủ lâu năm. Chính trong ba năm ấy, Lưu Linh ngộ ra thiên đạo. Ba năm sau, Đỗ Khang đến đào lên, mở nắp vò ra, chỉ thấy Lưu Linh ngồi xếp bằng bên trong, đúng lúc vừa tỉnh rượu. Hiểu rõ nhân duyên, ông cùng Đỗ Khang phi thăng lên trời, trở thành tửu tiên.
Còn cái gọi là “mắt Lưu Linh trong quan tài” chính là để hình dung ánh mắt của Lưu Linh khi vừa tỉnh dậy trong bóng tối mịt mùng ấy: mở mắt ra là đen, nhắm lại cũng là đen; ánh sáng chẳng có, hy vọng chẳng thấy; chỉ còn cơn phẫn hận, khao khát được sống bốc lên trong lòng, mà lại bất lực, chỉ có thể chờ đợi ngày được nhìn thấy ánh dương một lần nữa.
Loại mắt này cực kỳ hiếm thấy. Đồng tử rất to, gần như che hết lòng trắng, đen nhánh, sáng bóng như say rượu. Người mang đôi mắt ấy thường có chí khí của bậc kiêu hùng, nhưng lại không có mệnh làm kiêu hùng. Họ thâm sâu khó lường, giỏi che giấu tâm cơ, trong lòng chứa đầy oán khí và dã tâm, chỉ lặng lẽ chờ thời để phản công.
Tương truyền đại hoạn quan Ngụy Trung Hiền đời Minh cũng mang một đôi mắt như thế. Vì vậy mới có thể âm thầm nuôi dã tâm trong hậu cung, cấu kết Hoàng hậu, toan tính đoạt quyền. Dĩ nhiên, đó chỉ là chuyện trong dã sử thôi.
Nghe Thạch Quyết Minh nói xong một tràng dài, đầu tôi và lão Dịch đều muốn nổ tung. Không ngờ chỉ một đôi mắt mà lại có bao nhiêu ẩn ý sâu xa đến vậy. Tôi vừa khâm phục sự huyền diệu của Tam Thanh Bốc Toán, vừa không khỏi kinh hãi khi nghĩ đến đôi mắt sáng rực mà thâm sâu khó đoán của chú Viên trong tiệm mì kia.
Nếu như lời của Thạch Quyết Minh là thật, vậy thì chú ấy chắc hẳn là một người tâm cơ rất sâu, giấu kín suy nghĩ trong lòng. Nhưng chuyện này thật khó tin, bởi trong mắt tôi, chú Viên nào có vẻ gì là người mưu mô xảo trá. Chính chú là người giới thiệu công việc hiện tại cho tôi, một người hiền lành, cởi mở, đối xử tử tế như thế, sao lại có thể là kẻ ngoài cười trong mưu, miệng một kiểu mà lòng một kiểu được chứ?
Thế nhưng, đúng là “vẽ hổ vẽ da dễ, vẽ xương khó; biết người biết mặt chẳng biết lòng”. Nghĩ lại, tôi cũng thấy lạ, chú ấy có người em trai nghe nói giàu có lắm, vậy mà bản thân lại tự mình mở một quán mì nhỏ vắng khách, héo hon như vậy để làm gì?
Nhưng rồi tôi lại tự nhủ, chú Viên là người thế nào thì có can hệ gì đến mình đâu. Tôi chỉ là một kẻ đến ăn mì thôi, không quyền, không tiền, cũng chẳng người yêu, có gì mà phải lo? Ai sống theo cách của người nấy, người ta sống thế nào, đâu đến lượt tôi xen vào.
Dẫu vậy, tôi vẫn tin Thạch Quyết Minh nói chẳng sai. Thế là tôi hỏi: "Này, Thạch Đầu, anh nói chú Viên như thế, liệu có liên quan gì đến chúng ta không?”
Thạch Quyết Minh lắc đầu, đáp: “Tôi cũng không rõ. Có lẽ là lần đầu tiên tôi thấy một đôi mắt như vậy, nên thấy hơi lạ thôi. Cũng có thể là tôi nhìn nhầm. Nhưng mà cậu nói xem, đôi "mắt Lưu Linh trong quan tài’ hiếm có như thế, sao lại vừa khéo để chúng ta gặp phải nhỉ?”
Tôi nhìn anh ta, lòng thầm nghĩ chắc lại đọc tiểu thuyết nhiều quá rồi. Thời nay làm gì có chuyện thần bí đến thế, chắc chỉ là trùng hợp thôi, nên chú Viên mới có ánh mắt như vậy.
Phải nói thêm rằng, Thạch Quyết Minh vốn là người đa nghi, về sau tôi mới biết, đó có lẽ là “bệnh nghề nghiệp” của người học Tam Thanh Bốc Toán. Hễ gặp chuyện gì hơi lạ một chút là họ lại liên tưởng ngay đến ma quỷ, âm dương, vận mệnh. Ngay cả tôi với lão Dịch đôi khi cũng bị ảnh hưởng, nhưng dù sao chúng tôi cũng chỉ là dân ngoài cuộc. Còn Thạch Quyết Minh — truyền nhân chính tông của thuật bói toán — mà cũng mê tín như thế, thì quả thật khiến hai chúng tôi không khỏi thắc mắc.
Những chuyện nghĩ mãi không ra, tôi thường chẳng buồn nghĩ nữa, vừa tốn sức, vừa mệt não, mà tôi thì lại là kẻ hồn phách từng chịu tổn thương, có muốn động não nhiều cũng chẳng đủ sức. Còn Dịch Hân Tinh thì khỏi nói, trời sinh ngốc nghếch, ai cũng gọi anh ta là “Trần Quán Hy của Hắc Long Giang – người vui vẻ thuận theo số mệnh”. Loại người như thế, đừng mong động não suy nghĩ mấy chuyện rối rắm này. Nghĩ nhiều chỉ tổ phí tế bào não, mà tế bào c.h.ế.t nhiều thì rụng tóc, tôi còn trẻ thế này, chẳng lẽ lại muốn sớm hóa “người thời Thanh” à?
Thạch Quyết Minh thì khác, đối phương có vẻ say mê với mấy chuyện huyền hoặc, đúng là tính cách chuẩn mực của truyền nhân Tam Thanh Bốc Toán. Nhìn Thạch Đầu nghiêm túc đến thế, tôi lại buồn cười, tương lai chắc chắn là đầu hói kiểu “Địa Trung Hải”, trốn không thoát đâu.
Tôi vươn vai một cái, cười nói:
“Thôi đừng nghĩ nữa. Chú Viên với tôi có ân, mà chúng ta với chú ấy cũng chẳng thân thiết gì. Nghĩ xem tương lai mới là việc chính. À này, Thạch Đầu, mạng của tôi với lão Dịch còn nằm trong tay anh đấy, tra được gì chưa?”
Thạch Quyết Minh nghe vậy thì ngượng ngùng cười, đáp:
“Tạm thời vẫn chưa. Tôi cần thu thập đủ dữ liệu hôm hai người nhập viện, ví dụ như thời tiết, vị trí địa lý, cả biến động thời gian nữa, rồi mới có thể bắt đầu tính được. Có lẽ phải chờ thêm một thời gian nữa, nhanh thì cũng phải ba tuần.”
Ba tuần! Nói vậy là chỉ cần ba tuần nữa, tôi sẽ biết tung tích của nữ quỷ bỏ trốn kia sao? Tin này đúng là khiến lòng tôi mừng rỡ. Phải biết rằng, mấy tháng nay tôi cứ bị nữ quỷ đó ám vào tận trong mơ, nhiều đến mức sắp nôn ra mất. Giờ mà thoát được thì chẳng khác nào giải thoát cả đời!
Đến lúc đó chỉ cần bắt được nó, giao cho Tạ Tất An, lão ta sẽ tha cho tôi và Dịch Hân Tinh một mạng. Thoát c.h.ế.t rồi, tôi mới có thể toàn tâm toàn ý đi tìm Thất Bảo Bạch Ngọc Luân.
Chỉ tiếc là cái tẩu t.h.u.ố.c của Hắc Ma Ma không biết đã bị ai đ.á.n.h cắp, khiến tôi bực không chịu nổi. Còn thanh kiếm Hoàng Sào nữa, ngay cả tên cũng chưa từng nghe bao giờ. Phải nói thật, thứ này chắc chắn không phải “Nestlé cà phê” mà dễ tìm như thế đâu.
Haizz, vẫn là câu nói cũ thôi, đi được bước nào hay bước ấy, chỉ cần còn hy vọng thì vẫn đáng để bước tiếp. Giờ nghĩ lại, tình hình bây giờ cũng đã tốt hơn trước nhiều rồi, ít ra còn có hướng mà đi, chứ chẳng như hồi trước, tôi với lão Dịch cứ mò mẫm trong bóng tối, chẳng biết lối nào ra.
Một khi cuộc sống có mục tiêu, con người ta sẽ thấy lòng mình bớt trống rỗng hẳn. Mỗi ngày được tiến gần hơn một chút về phía mục tiêu ấy, dù có thành hay không cũng đủ khiến người ta cảm thấy phấn chấn, thấy bản thân đang sống có ý nghĩa. Tuy tôi bị đẩy vào những chuyện này như “vịt bị ép lên giá nướng”, nhưng ít ra cũng đã có cái đích mà hướng tới. Thôi thì cứ vì cuộc sống nhỏ bé, bình yên của một dân thường mà cố gắng vậy.
Nghĩ đến đây, tôi bỗng thấy cả người tràn đầy sức lực. Vì lúc nãy đã liếm ngón tay đen sì kia, cơn say cũng tan gần hết, tôi liền nói với hai người họ:
“Được rồi, trời cũng khuya rồi, ai về nhà nấy đi. Thạch Đầu, lão Dịch, tối nay về sớm mà nghỉ nhé.”
Cả hai đều gật đầu. Chúng tôi mỗi người bắt một chiếc taxi, tản đi về hướng riêng.
Trên đường về nhà, người lái xe là một thanh niên trẻ, anh ta bật CD trong xe, bài hát “Bỏ trốn” của Trịnh Quân vang lên. Giọng hát phóng khoáng, ngông nghênh như thổi bùng lên một thứ cảm xúc lạ lùng trong lòng tôi, giống như chạm đến những ước mơ và rung động mà từ lâu tôi đã cất giấu thật sâu trong tim.
Tôi châm một điếu thuốc, ngả người ra ghế, nhìn qua khung cửa sổ xe. Bên ngoài là dòng xe tấp nập, đèn đường lấp lánh phản chiếu lên mặt kính. Thời tiết ở Cáp Nhĩ Tân thật kỳ lạ, hôm qua còn lạnh cắt da, mà hôm nay lại ấm áp lạ thường. Hai bên đường, những cây đinh hương đã rụt rè nhú những chồi non đầu tiên, như đang khẽ nói mùa xuân đến rồi, cũng sắp đi rồi. Mùa hạ đang đến gần. Không biết mùa hè này có mang đến cho kẻ cô đơn như tôi một chút hơi ấm nào không.
