Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 171: Vận Cứ.t Chó
Cập nhật lúc: 05/11/2025 07:12
Nikolas·Quảng Khôn từng nói một câu rất chí lý: “Cho dù là cao thủ võ lâm lợi hại đến đâu, cũng có ngày rơi tõm xuống hố phân.” Câu này quả thật không sai chút nào, vận may đúng là một yếu tố cực kỳ quan trọng, và lần này, tôi đã sâu sắc cảm nhận được điều đó.
Thật không ngờ, ngay khi tôi đã hạ quyết tâm cùng c.h.ế.t với lão quái vật kia, chuẩn bị chờ nó nhào tới, thì cơn gió mạnh bất chợt thổi tan hết mây đen. Trăng sáng lại hiện ra, mà đêm nay, trăng ấy chính là “trăng quỷ”.
“Trăng quỷ”, đúng như tên gọi, là loại trăng xuất hiện vào những đêm mà âm khí thịnh, quỷ vật cũng vì thế mà trở nên vô cùng linh hoạt. Vạn vật đều cần có ánh sáng để tồn tại, yêu tà quỷ quái cũng không ngoại lệ. Không có ánh sáng, sẽ chẳng có gì tồn tại được. Chỉ khác ở chỗ, người sống dựa vào ánh mặt trời, còn vong hồn, tà vật thì dựa vào ánh trăng. Bởi lẽ linh hồn con người sau khi c.h.ế.t không chịu nổi sức chiếu rọi mãnh liệt của mặt trời, chỉ có thể hấp thụ ánh trăng dịu hơn để tiếp tục tồn tại, trưởng dưỡng.
Mặt trăng thực chất chỉ là vật phản chiếu ánh mặt trời, giống như một tấm gương vậy, nên thuộc tính của nó là âm nhu. Nhiều loài yêu tà phải hấp thụ tinh hoa ánh trăng để duy trì sinh lực. Đó cũng chính là thứ mà phim ảnh thường hay nhắc tới: “Hấp thụ linh khí trời đất, thu tinh hoa nhật nguyệt.”
Thật ra, nếu hiểu cho đúng, những điều này chẳng có gì huyền hoặc hay khó hiểu như trong sách cổ viết cả. Tổ tiên chúng ta cũng là người thường, chỉ là họ dùng ngôn từ thời ấy để mô tả lại hiện tượng mà thôi. Những trước tác như Luận Ngữ, xét cho cùng chẳng phải cũng chỉ là những câu chuyện hàng ngày của Khổng Tử được đám học trò hiếu sự ghi chép lại đó sao?
Nói đến cương thi, nó khác hẳn với những loại uế vật thông thường. Từ “cương thi” bắt nguồn trong sách Đại Thiên Lục của một tác giả từ Đạo gia. Theo định nghĩa trong đó, cương thi là “Tứ chi cứng đờ, đầu không cúi, mắt không lệch, chân không duỗi, thân thể chẳng phân hủy.” Hiểu nôm na, đó là kẻ cứng đầu ngoan cố, một loại dị vật trong vạn vật giữa trời đất. Thường thì khi thế đạo suy đồi, nhân tâm sa ngã, sẽ dễ sinh ra cương thi. Chúng tái sinh nhờ âm khí, mở mắt nhờ ánh trăng, và tồn tại bằng cách hút m.á.u người.
Việc “bái nguyệt” này chính là hấp thu một loại năng lượng đặc biệt trong ánh trăng, cũng giống như việc ta vừa ngủ dậy còn mệt rã rời, buổi sáng ra ngoài không có chút tinh thần nào, nhưng chỉ cần bước xuống đường gặp ánh mặt trời là lập tức tỉnh táo hơn hẳn, đại khái cũng cùng một đạo lý như thế.
Thế nhưng trớ trêu thay, vào những đêm xuất hiện “trăng quỷ”, đám cương thi thường sẽ trốn vào hang động hoặc ẩn mình trong rừng sâu. Bởi “trăng quỷ” tuy cũng là ánh sáng phản chiếu từ mặt trời, nhưng khi đi qua tầng mây lại bị khúc xạ thêm một lần nữa, tạo thành một vòng quầng sáng ở rìa ngoài. Ánh sáng của quầng trăng ấy lại mang tính dương, tuy không gây hại cho các loại quỷ hồn thông thường, nhưng với lão thợ lặn kia thì chẳng khác nào khắc tinh. Bởi đạo trời công bằng, vạn vật đều có tương sinh tương khắc, không có gì là tuyệt đối vô địch, đó chính là căn nguyên của sự cân bằng trong vũ trụ.
Tôi c.h.ế.t lặng nhìn lên bầu trời, trông thấy vầng “trăng quỷ” ấy mà lòng không khỏi sững sờ, thật không ngờ vận số của mình lại kỳ lạ đến thế. Nhưng nói là may mắn cũng không hẳn, có lẽ chỉ là cái kiểu “âm sai dương ngẫu” rối rắm mà ngẫu nhiên thôi.
Ông trời à, ông đúng là còn khá công bằng đấy. Ban ngày cho một tia sét đ.á.n.h bật lão thợ lặn dậy, đến đêm lại phái “trăng quỷ” xuống để khắc chế nó. Chỉ khổ mỗi tôi với lão Dịch, hai đứa phải ra tay dọn dẹp hậu quả, cũng chẳng biết nên khóc hay nên cười nữa.
Tiếng “rắc rắc” lại vang lên, lão thợ lặn dường như chịu không nổi ánh trăng chiếu rọi, thân thể run bần bật rồi quay đầu, cử động cứng nhắc như rối gỗ, lảo đảo chạy về phía rừng sâu.
Nói thì dài, nhưng tất cả những chuyện vừa rồi thực chất chỉ diễn ra trong chưa đầy mười phút. Không ngờ cuối cùng lại xảy ra một bước ngoặt kịch tính đến thế, khiến tôi đứng ngây ra, hai tay vẫn còn khoanh chặt trước ngực, không dám tin đó là sự thật.
Mãi đến khi trong rừng hoàn toàn im ắng, không còn một tiếng động nào nữa, tôi mới thở phào một hơi, ngã phịch xuống mảnh đất lầy lội, cả người run rẩy không ngừng.
Dù sao đi nữa, tôi cũng không phải c.h.ế.t, chúng tôi đều không phải c.h.ế.t nữa. Cái cảm giác thoát c.h.ế.t trong gang tấc ấy thật sự sung sướng, giống hệt như khi bạn ôm tâm thế “c.h.ế.t chắc rồi” mà nốc phải một cốc nước tiểu, ai ngờ uống vào miệng mới phát hiện đó lại là bia Cáp Nhĩ Tân mát lạnh, sảng khoái đến mức muốn rơi nước mắt.
Lão Dịch vẫn còn nằm sõng soài bên kia. Thấy con quái vật đột nhiên bỏ chạy, anh ta kinh ngạc vô cùng, giọng yếu ớt hỏi: “Lão Thôi, rốt cuộc là chuyện gì thế? Sao nó lại không g.i.ế.c chúng ta?”
Tôi cười khổ, đứng lên đỡ anh ta dậy rồi đáp: “Tôi biết quái gì đâu. Có lẽ là mạng chúng ta chưa tận. Trên trời vừa xuất hiện ‘trăng quỷ’ đấy.”
Dịch Hân Tinh dựa người vào tôi, tôi lấy ra hai điếu thuốc, châm lửa, rồi nhét một điếu vào miệng anh ta. Tuy đêm nay coi như tạm an toàn, nhưng không có nghĩa là đêm mai lão quái đó sẽ không quay lại. Đúng là tránh được mồng một thì còn có mồng năm, qua mồng năm lại tới mồng sáu, thật hết cách mà.
Chừng hơn mười phút sau, lão Dịch đã có thể miễn cưỡng đứng lên, mà vết thương trên tay cũng dần liền miệng. Đúng là trong cái rủi có cái may, sát khí chưa thực sự xâm nhập vào cơ thể, nếu không hậu quả e rằng chẳng cứu nổi.
Nghĩ đến chuyện trước đó, chúng tôi đã hẹn với hai lão thần côn rằng, dù có tìm thấy dì Chân hay không thì nửa tiếng sau cũng phải quay về nhà họ Chân. Mà giờ đã quá hai tiếng, chắc bọn họ lo sốt vó mất. May mà dì Chân vẫn còn sống, chỉ là ngất đi thôi. Mong rằng dì ấy chưa kịp nhìn thấy lão thợ lặn kia, nếu không, nhà họ Chân e rằng thật sự sẽ đại loạn.
Đêm đã rất khuya. Từ khi lão quái vật kia bỏ đi, chim thú quanh đây dường như cũng quay lại cả rồi. Không biết từ trên tán cây nào, một con cú mèo bắt đầu kêu “cúc… cu… cúc… cu…”, nghe như đang chế giễu vận may của chúng tôi vậy.
Hai chúng tôi bước vào trong rừng, tôi kéo dì Chân ra khỏi bụi rậm, đưa tay sờ lên trán dì, thấy nóng ran, rõ ràng là đang sốt cao. Tôi thở dài, thật sự thấy tội cho dì ấy, chỉ vì mang ô ra cho hai lão thần côn tham tiền kia mà suýt mất mạng. Nghĩ đến cái bản mặt hám lợi của hai người đó, tôi lại thấy bất bình thay.
Nhưng giờ có nói gì cũng vô ích, việc trước mắt là phải đưa đối phương về nhà đã. Tôi cõng dì Chân lên lưng, cùng lão Dịch lê bước trên con đường tối om trở lại.
Đường núi ban đêm rất khó đi, mãi gần một tiếng sau, chúng tôi mới về tới nhà họ Chân. Cánh cửa vừa mở ra, cả nhà họ đều đang ngồi trong phòng khách chờ, dĩ nhiên có cả chú Văn và chú Lâm. Vừa thấy tôi cõng dì Chân, họ liền vội vàng chạy tới giúp, đỡ dì đặt lên sofa. Người nhà họ Chân bắt đầu làu bàu, trách cô em chỉ biết gây chuyện.
Chú Văn nghe thấy, quay đầu lại trừng cho một cái, lập tức không ai dám hó hé thêm lời nào.
Chú Lâm bưng một cốc nước tới, rồi bấm nhân trung của dì Chân. Chẳng bao lâu sau, dì ấy ho khan mấy tiếng, chậm rãi mở mắt, nhận ra mình đã ở trong nhà, giọng yếu ớt hỏi: “Chuyện… chuyện gì đã xảy ra vậy?”
Tôi cười khổ, bọn tôi cũng có biết gì đâu. Khi tìm thấy dì ấy, thì đã như thế này rồi. Còn lão thợ lặn cũng ở ngay bên cạnh, suýt nữa thì dắt dì ấy đi thật rồi.
Chú Văn liên mồm hỏi dì Chân xem đã xảy ra chuyện gì. Dì ấy ngẫm nghĩ một lúc rồi kể:
“Em chỉ nhớ lúc đó lên núi tìm hai anh, nhưng thấy hai người không có trên đỉnh núi nên lại đi xuống. Đi được một đoạn thì trời đổ mưa, em tìm chỗ trú, nào ngờ vừa đến một bãi cỏ thì bị vấp phải cái gì đó, ngã xuống, sau đó chẳng còn nhớ gì nữa.”
Phù, tôi và lão Dịch cùng thở phào nhẹ nhõm. Không nhớ gì là tốt rồi, chứ mà nhớ hết thì chắc cả nhà này loạn lên mất, đến lúc đó chẳng biết thu dọn kiểu gì.
Lão Dịch vẫn còn rất yếu, mà phép Tam Độn Nạp Thân cũng đã tan, nên anh ta lại trở về trạng thái ngây ngô thường thấy. Tên ngốc chẳng nghĩ gì đến chuyện phải giữ kín bí mật, bỗng quay sang nói với chú Lâm: “Chú Lâm à! Bọn cháu vừa rồi ở trên núi thấy lão qu—”
Mẹ kiếp, có thể yên lặng chút được không hả, ông anh? Tôi hốt hoảng bịt ngay miệng anh ta lại, rồi cười lớn nói với mọi người: “Vừa rồi trên núi bọn cháu thấy một con thỏ già! Ui trời ơi, nó to phải bằng con heo con ấy!”
Chú Lâm liếc lão Dịch một cái sắc lạnh, hiển nhiên hai ông già này chưa nói với nhà họ Chân chuyện lão thợ lặn kia đã biến mất. Nếu để họ biết, giờ này chắc chẳng còn ai đủ bình tĩnh ngồi uống trà thế này đâu.
Trời đã rất khuya. Thấy dì Chân chỉ bị dính mưa, hơi sốt nhẹ chứ không quá nghiêm trọng, chú Văn liền bảo mọi người đi nghỉ sớm.
Sau khi sắp xếp ổn thỏa, hai lão thần côn bất ngờ không còn cãi nhau như thường lệ nữa. Họ dẫn tôi và lão Dịch vào phòng riêng, bảo chúng tôi ngồi xuống, rồi nghiêm giọng hỏi hai đứa rốt cuộc đã thấy gì trên núi.
Vì từng bị vạ miệng một lần, nên giờ lão Dịch chẳng dám nói thêm nửa câu, sợ lại lỡ lời rồi bị chú Lâm trừng cho một cái lườm cháy da. Thế là trọng trách thuật lại sự việc đành rơi hết lên vai tôi.
Trong lòng tôi vốn đang rối như tơ vò, không biết có nên nói thật với họ không đây?
Hai ông già này tuy đã biết cái xác của lão thợ lặn biến mất, nhưng chuyện xác mất thì có cả trăm lý do hợp tình hợp lý để giải thích. Núi rừng hoang vu, dã thú đầy rẫy, mộ lại mới đắp, bị ch.ó sói hay thú hoang đào bới tha đi cũng chẳng có gì lạ. Mà cho dù tôi có nói thật thì hai người họ có giúp được gì không?
Về phần chú Lâm thì tôi chưa rõ, nhưng chú Văn thì tôi quá hiểu rồi, còn hơn nông dân hiểu về phân bón ấy chứ. Với bản lĩnh của ông ấy, chẳng lẽ lại để chú Văn lên núi đấu trí với lão thợ lặn kia à?
Hơn nữa, nếu tôi nói thật, thân phận đệ tử Bạch phái của tôi và lão Dịch sẽ bị lộ, lúc đó cái đầu của tôi khác gì chọc xuống hố phân cho người ta cười đâu!
Nghĩ đến đây, tôi quyết định thôi, cứ như thường lệ mà lừa khéo hai ông già này vậy. Thế là tôi làm ra vẻ ngây ngô, vô tội, nói:
“À thì… tại trong núi tối quá, hai bọn cháu đi lạc. Đi mãi đi mãi thì thấy dì Chân nằm trên bãi cỏ, nên bọn cháu cõng dì ấy về luôn. Cái núi đó đúng là không phải chỗ cho người ở đâu, chú xem, cành cây còn cào rách cả tay bọn cháu đây này.”
Nói xong, tôi chìa cánh tay ra cho hai ông già xem. Trên đó, vết cào do móng vuốt của lão thợ lặn để lại đã ngừng chảy máu, nhưng trông hệt như vết xước do cành cây quệt vào, giống đến mức chẳng ai có thể nghi ngờ.
Hai ông già nghe tôi nói vậy cũng chẳng đáp lời, chỉ cúi đầu im lặng, vẻ mặt nặng trĩu suy tư. Trong phòng lặng như tờ.
Lão Dịch tuy chưa bị sát khí thật sự xâm nhập vào người, nhưng cũng đã bị nhiễm một phần. Dù sau đó tôi có dùng móng út hóa giải giúp, nhưng trên đường về lại bị nhiễm lạnh, nên cơ thể bắt đầu phản ứng, nói trắng ra là xì hơi không kiểm soát được.
Trong căn phòng yên ắng ấy, chỉ nghe thấy tiếng “bủm bủm” vang lên từng hồi, khiến bầu không khí nghiêm túc vừa rồi tan biến không còn dấu vết.
Chú Lâm chịu hết nổi, bực bội quát: “Ra ngoài đi! Nhìn thấy cháu là đã phiền rồi!”
Lão Dịch nhăn mặt khổ sở, đâu ai muốn thành “máy xì hơi liên thanh” đâu, nhưng đây là phản ứng sinh lý, có muốn nhịn cũng chẳng được. Anh ta liếc tôi một cái đầy ấm ức, rồi đành lủi thủi bước ra ngoài. Trước khi đóng cửa, còn để lại một tiếng “bủm” cực to, nghe mà thương thay cho lòng oan uổng.
Lão Dịch vừa ra khỏi phòng, bầu không khí mới yên ổn lại. Chú Lâm tức tối đi mở toang cửa sổ cho thoáng, còn tôi thì quay sang hỏi chú Văn: “Chú Văn, cái xác biến mất rồi, giờ phải làm sao đây?”
Không thể khác được, chuyện đó là thật, nếu không tìm ra nguyên nhân thì hậu quả khó lường. Rõ ràng hai lão thần côn cũng đang lo sốt vó, bởi khu mộ phong thủy kia chính là tay họ chọn. Giờ mà để nhà họ Chân phát hiện mộ tộ bị mất xác, thì chẳng khác nào tự vả vào mặt mình, mất hết thể diện.
Chú Văn im lặng châm một điếu thuốc, rít sâu một hơi rồi nói với tôi: “Tiểu Phi, ngày mai cháu được nghỉ, về nhà chơi mấy hôm đi. Sau đó thì quay lại Cáp Nhĩ Tân luôn.”
