Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 174: Trận Pháp Hỗn Hợp Bán Tự Động 2

Cập nhật lúc: 05/11/2025 07:12

Trận là hình, mà hình thì hóa thành trận. Tất cả các trận đều lấy hình làm chủ, từ đó mới sinh ra sức mạnh khôn lường. Tôi ngồi xổm trước tảng đá to mà trước đây hai con chuột tinh từng làm tổ, cắm cúi vẽ bùa đến mức sắp gãy cổ tay, trong đầu chợt hiện lên câu nói đó được trích trong Tam Thanh Thư. Nghe thì thâm sâu huyền ảo, nhưng nếu ngẫm kỹ thì cũng chẳng có gì quá huyền bí.   

Không thể phủ nhận tổ tiên chúng ta để lại nhiều thứ thật sự thâm sâu, nhưng hậu nhân lại hay thần thánh hóa quá mức. Cứ nhìn mấy bộ phim cổ trang mà xem, hiệp khách nào cũng tung bay như chim, cứ như thể nếu không biết bay thì mất mặt lắm vậy. Mấy ông Tây mà xem còn tưởng đất nước ta có lực hút yếu hơn nơi khác. Thực ra, hiệp khách thì có đấy, nhưng tuyệt đối không ai biết bay cả. Đại hiệp cũng là người, cũng phải ăn cơm, đẹp trai thì đẹp trai chứ chẳng no được bụng.

Câu nói về “trận” này cũng thế thôi. Nói trắng ra, ý nghĩa cốt lõi chỉ có một: “Trận không thể tách rời khỏi hình.” Một trận pháp mà không có hình dáng cụ thể thì chẳng khác nào cát khô gặp gió, tan tác mà chẳng có sức mạnh gì. Tôi phát hiện ra, chỉ cần biến một câu bình thường thành cổ ngữ, nghe vào là thấy ngay thâm ý cao sâu, giống như bài thơ của Lý Bạch: “Đầu giường ánh trăng rọi, ngỡ mặt đất phủ sương.” Lúc đầu tôi thấy khó hiểu lắm, nhưng nghĩ kỹ rồi thêm vài dấu câu, hóa ra cũng hợp với cách nghĩ hiện đại, trăng soi xuống đất. Ừ? Là sương dưới đất à? 

Đang lúc đang mải nghĩ linh tinh, tay tôi trượt một cái, vẽ sai mất một nét trên tờ giấy, toét ra hẳn một dấu chấm hỏi. Tôi tức điên lên. Rõ ràng không thể vừa vẽ bùa vừa nghĩ tán loạn trong đầu như thế được. Thôi, gạt hết tạp niệm, tập trung vào việc chính. Giờ đâu còn rảnh mà ngẩn ngơ nữa, phải biết rằng lão thợ lặn đó là loài hoạt động về đêm. Nó chẳng quan tâm giờ nào âm thịnh hay dương suy, chỉ cần mặt trời lặn xuống là nó làm vua. Nói xem, khắp cái huyện Cát Lợi này, hay thậm chí cả Thất Đài Hà, có mấy ai dám đối đầu trực diện với nó được vài hiệp? 

Chắc cũng chỉ có hai thằng ngu như tôi với lão Dịch là tự nguyện đi tìm c.h.ế.t, chẳng khác nào đầu óc bị nước vào. Nghe nói xưa kia, thợ săn trong núi nếu nghèo quá, cùng đường rồi, sẽ ôm tâm lý liều c.h.ế.t mà đặt bẫy săn gấu đen. Giờ nghĩ lại, cảnh ngộ của hai đứa tôi đúng là chẳng khác gì họ.

Tôi và lão Dịch chẳng khác nào hai gã thợ săn, chỉ có điều con mồi của chúng tôi là một cái xác c.h.ế.t. Hôm nay gió lớn, mực trên những lá bùa vừa vẽ xong nhanh chóng khô lại, tôi lấy mấy hòn đá đè lên để khỏi bị thổi bay. Gió thổi phất phơ những mép giấy vàng, trông chẳng khác nào góc cờ đang tung bay giữa không trung.

Không biết từ khi nào, tôi đã biến thành một kẻ giống như trong những câu chuyện dân gian — người có thể hàng yêu trừ ma. Thế nhưng, dù trong tay cầm bùa chú, tôi lại chẳng có chút phong độ tiêu sái nào như nhân vật trong truyền thuyết. Lúc ấy mới hiểu ra, truyện chỉ là truyện, tất cả đều là những điều bình thường được thêu dệt, tô vẽ quá mức. Còn tôi, chỉ là một người bình thường. Không biết nhiều năm sau, liệu hình ảnh của tôi có bị phóng đại thành một câu chuyện kỳ lạ nào không, một kẻ “ngũ tệ tam khuyết”, xui xẻo và bất toàn, có khi lại bị người ta thần thánh hóa, rồi hóa thành nhân vật trong một truyền thuyết không mấy tốt đẹp.

Tôi châm một điếu thuốc, khẽ cười chua chát. Nghĩ nhiều làm gì, mấy chuyện đó chẳng liên quan gì tới mình. Tốt nhất là tập trung làm việc cho xong. Vậy nên tôi hít sâu, dồn tâm thần, tiếp tục vẽ từng nét bùa một.  

Chẳng bao lâu, Dịch Hân Tinh thở hồng hộc bò qua đống củi khô, trên tay ôm một đống gỗ cháy đen, vừa chạy vừa gọi:

“Lão Thôi, vẽ tới đâu rồi? Xong chưa? Mẹ kiếp, chỗ này bị bão quét qua à?”

Anh ta cũng kinh ngạc trước tình cảnh của cánh đồng t.h.u.ố.c phiện. Cũng đúng thôi, cỏ cây xung quanh vẫn tươi tốt, chỉ riêng đám anh túc là bị tàn phá tan hoang. Nói sao nhỉ, chỉ có thể gọi đó là báo ứng. 

Tôi đáp lại: “Làm gì mà hoảng thế, đến giờ còn chưa nghe báo ứng à? Sắp xong rồi, còn hai tấm nữa thôi. Anh thì sao, xem ra mớ gỗ này cũng đủ dùng đấy nhỉ?”

Lão Dịch phấn khởi cầm một đoạn gỗ lên nói với tôi: “Nhìn này, đúng chuẩn Lôi Phách Mộc rồi, vân gỗ rõ ràng có hình tia sét, đúng là lựa chọn số một để trừ tà. Nếu khắc thành kiếm gỗ thì uy lực chẳng kém thanh đồng tiền của cậu đâu.”

Tôi chẳng rành lắm mấy chuyện “vân” này, nhưng dù lão Dịch có hơi ngây ngô thật, anh ta cũng không phải kẻ mù; nhìn bộ dạng hồ hởi như vừa tìm được báu vật, tôi biết đối phương không nói đùa. Lão Dịch thông thạo thuật chế đồ trong Kỳ Môn, nên lời nói ra là có lý, anh ta đúng là thợ chữ nghĩa của chúng tôi.  

Dịch Hân Tinh không chần chừ, thấy tôi gần xong thì lôi dây câu và d.a.o khắc ra, tập trung khắc những trận ấn lên mớ gỗ cháy đen kia. Thời gian trôi chầm chậm, tôi hoàn tất công việc chính, nhìn lên mấy tờ phù, thấy ba mươi lá thư trận đều tỏa ra một ánh sáng lờ mờ. Đó chính là dấu hiệu “giấy dẫn thần” đã linh nghiệm, tất cả đều thành công.  

Tôi rút hai chai nước ra nghỉ một chút, còn lão Dịch thì vẫn mồ hôi nhễ nhãi ngồi khắc gỗ, trông cứ như quản lý bếp t.h.u.ố.c của một khu nghỉ dưỡng cao cấp, chỉ thiếu cái ống tay và kính dây là hoàn hảo.  

Nhìn thấy mặt trời sắp lặn, tôi bắt tay vào chuẩn bị đồ. Tôi bước vào giữa đám t.h.u.ố.c phiện, lấy đá đặt chặn ba mươi lá trận theo hình dạng khoang miệng, rồi đặt lên tảng đá lớn bên cạnh cái lư hương gạo nếp m.á.u gà với bột chu sa và hương. Không mua được bù nhìn chuyên dụng nên tôi tự buộc một con bù nhìn bằng cây ngải khô, may mà hồi trước bản thân học ngành mỹ thuật, những thứ này không làm khó được tôi; làm bù nhìn bằng thân cây với vài động tác là trông khá chỉn chu. Buộc xong, tôi giấu mấy sợi tóc của dì Chân vào bụng bù nhìn như dự định.

Làm xong mọi thứ thì cũng đã hơn năm giờ. May thay, sắp vào mùa hè nên mặt trời lặn muộn, thường phải sau sáu giờ, trời mới tối hẳn. Hơn nữa, lão quái đó chắc cũng chẳng làm việc đúng giờ như công chức, nên tôi đoán nó sẽ chỉ ra c.ắ.n người vào tầm tám, chín giờ tối. 

Thời gian vẫn còn khá dư dả, tôi thở phào một hơi. Thấy lão Dịch vẫn đang khắc dở, tôi liền vẽ thêm vài lá khai nhãn phù. Loại này chẳng phải thứ lợi hại gì, nhưng ít ra cũng giúp tôi nhìn rõ trong đêm, chứ cứ soi đèn điện thoại mãi thì đúng là phiền phức.  

Vừa mở âm nhãn xong, lão Dịch cũng ngừng tay. Anh ta đứng dậy, vươn vai một cái rồi nói: “Xong rồi, để tôi đem ra bày trận.”  

Nói rồi, anh ta ôm cả đống gỗ cháy đen, cắm theo một trật tự đặc biệt vào trận Quyển Thiệt Đề Đăng mà tôi đã bố trí, tạo thành hình một cái chuông lớn. Tôi nhìn mà thầm nghĩ trận pháp này có triển vọng đấy, miệng rộng nuốt chuông lớn, kiểu nửa tự động pha trộn như thế này chắc đủ sức tiễn lão quái đó về địa ngục luôn. 

Sau khi cắm xong, lão Dịch lại dùng dây câu nối liền những thanh gỗ ấy lại với nhau như giăng mìn, rồi lấy chiếc đèn xanh nhỏ ra, chấm dầu và thắp lên từng đoạn gỗ một. Làm xong hết, anh ta mở Tam Thanh Đàn. Ngay lập tức, con bù nhìn bằng ngải khô đứng thẳng dậy. Lão Dịch quay sang tôi nói: “Ổn rồi, giờ chỉ chờ thứ kia c.ắ.n câu thôi.” 

Lúc đó trời vẫn còn sớm, mặt trời vừa khuất núi, mây đỏ rực cả chân trời. Ở phía cuối dãy núi, những áng mây lửa chiếu rọi khiến cả đỉnh Trác Mộc như bốc cháy, ánh đỏ lan ra khắp cánh đồng anh túc, nhuộm cả những đóa hoa tàn úa thành màu máu. Nhìn cảnh ấy, tôi chỉ thấy man mác buồn, dẫu từng rực rỡ đến đâu, cuối cùng cũng có ngày tuổi xuân tàn phai.

Gió nổi lên, khiến rừng cây xào xạc không ngừng, cũng thổi tung chiếc áo phông trắng toát tôi mua ở quán ven đường, thổi cả mái tóc rối bù của tôi trông chẳng khác nào tổ quạ. Dịch Hân Tinh đang ngoáy mũi, bỗng vỗ vai tôi nói: 

“Ngẩn ra làm gì thế, đói rồi à? Này, ăn miếng bánh mì đi.”

Đúng là đồ phá hỏng bầu không khí. Tôi khẽ cười khổ, định bắt chước kiểu ngẩng đầu 45 độ ngắm trời rơi lệ cho ra dáng u buồn, thế mà bị anh ta làm cho bay sạch cảm xúc. 

Tôi lại bật cười. Thôi, có lẽ mình vẫn chỉ là một thằng dân thường, không sống nổi kiểu nghệ sĩ mơ mộng đó đâu. Thay vì ngẩng đầu nhìn trời mà than thở, chi bằng cúi đầu mà bước cho vững đường đi. 

Màn đêm cuối cùng cũng buông xuống. Mặt trăng ló ra khỏi mây, bầu trời rải đầy sao, trông như mặt bánh nướng phủ đầy mè. Hai đứa vừa nhai bánh mì vừa ngước nhìn. Tôi vốn chẳng ưa thứ này, nhưng vẫn phải cố nuốt vài miếng. Dù sao cũng phải nạp năng lượng, phòng khi trận pháp xảy ra trục trặc, biết đâu lại phải liều mạng với nó.  

Từ nãy tới giờ, hai đứa đều chẳng nói lời nào. Bầu không khí bắt đầu nặng nề, mà con người hễ nặng nề thì dễ sợ hãi. Lão Dịch tu ừng ực chai nước suối, rồi nói: “Nói gì đi chứ, còn sớm mà, lão quái đó chưa tới đâu.” 

Tôi nhìn sang anh ta, chẳng biết nên mở miệng thế nào, đành bảo: “Vậy anh khởi đầu đi, nói chuyện gì đó cho đỡ im lặng.”

Đối phương nghĩ một lát, bỗng buột miệng: “Này, cậu nói xem, mấy ông thầy trong chính phái ai cũng có đạo hiệu cả, hay là chúng ta cũng nên tự đặt cho mình một cái nhỉ?”

Đạo hiệu? Thứ đó chưa từng nghĩ tới, mà trong lòng tôi thì cái này hoàn toàn là chuyện có cũng được, không có cũng chẳng sao, đúng kiểu “cởi quần rồi mới đ.á.n.h rắm”, thừa thãi hết sức. Tên tục của tôi còn là “Cẩu Thặng Tử” cơ, sao phải bày vẽ nữa chứ? 

Tôi bật cười, nói với lão Dịch: “Anh chẳng phải đã có rồi sao? ‘Ngô Diệc Tổ của Cáp Nhĩ Tân’ oai phong lắm mà?” 

Dịch Hân Tinh lườm tôi một cái khinh bỉ. Từ khi chúng tôi quen Thạch Quyết Minh đến nay, tên ngốc này chẳng còn dám tự xưng như thế nữa, chắc cũng thấy quê rồi. Anh ta nói: “Biến biến, đó là biệt danh, tôi nói đạo hiệu cơ. Tôi đang nghĩ xem nên lấy cái gì cho hợp đây.”

Nói xong, đối phương thật sự nghiêm túc mà trầm tư, khiến tôi nhìn mà suýt bật cười. Cái tính ngố bẩm sinh của anh ta đúng là “đặc sản Đông Bắc”. Nghĩ một hồi, lão Dịch ngẩng lên nói: 

“Tôi nghĩ ra rồi! Phải chọn một cái tên thật oai, lại hợp với khí chất của tôi. Cậu thấy ‘Anh Tuấn Hiệp’ thế nào?”

Tôi nhìn “Anh Tuấn Hiệp” đang phấn khích kia mà nghẹn họng, không nói nên lời. Cái tên này chắc là xem “Người Sắt” nhiều quá nên bị nhiễm luôn chăng? Sao lại nghĩ ra được cái tên quê mùa đến thế?

Tôi cười gằn: “Đạo hiệu này của anh đúng là độc nhất vô nhị ở Đông Bắc đấy. Nhưng mà tôi hỏi thật, đạo hiệu với biệt danh khác nhau ở chỗ nào?”

Lão Dịch vỗ vai tôi, nói với vẻ đầy tự tin: “Khác chứ! Đạo hiệu nghe nó đàn ông hơn, khí phách hơn nhiều! Cậu không hiểu được đâu. À mà này, cậu vừa nhắc tôi đấy, đạo hiệu của cậu gọi là ‘Đệ Nhất Tuyệt Đông Bắc’ đi!”

Nếu tôi thật sự nhận một cái đạo hiệu quê mùa như thế, e rằng Cửu Thúc dưới suối vàng cũng bị làm cho xui lây mất. Tôi đoán chắc trong bụng lão Dịch toàn là mưu mô, thậm chí trong đầu nhất định đang nghĩ: nếu sau này hai chúng tôi gặp đồng đạo, mỗi người báo một đạo hiệu ra, cộng lại sẽ thành “Đệ Nhất Tuyệt Đông Bắc Anh Tuấn Hiệp”, nghe thế nào cũng giống đang tán dương bản thân anh ta. 

Tôi cạn lời, không biết nói gì thêm. Còn Dịch Hân Tinh thì càng lúc càng hứng chí, phấn khích hỏi tôi: “Thế nào, oai không? Cái đạo hiệu này có khí phách chứ?”

Tôi thật sự chẳng muốn cùng anh ta làm mấy trò ngốc này, nhưng lại sợ nói nặng sẽ làm đối phương cụt hứng. Biết rõ anh ta đã vào trạng thái “ngốc tự nhiên”, tôi đành xuôi theo, nói lấy lệ: “Anh là đại ca, anh nói được thì được.”

Nghe vậy, lão Dịch lập tức quay người rút ra một tờ giấy, viết ngoáy ngoáy vài hàng, rồi kéo tay tôi đặt lên đó ấn dấu tay. Chẳng hiểu anh ta lại đang phát cơn ngớ ngẩn gì nữa, nên tôi mặc kệ, muốn làm gì thì làm.

Viết xong, lão Dịch châm lửa đốt tờ giấy, nghiêm túc nói một câu: “Xong rồi.”

Tôi hơi ngạc nhiên hỏi: “Xong gì cơ?”

Lão Dịch đáp, giọng đầy tự hào: “Là văn thư đạo hiệu đó! Ấn tay lên rồi đốt đi là gửi xuống âm phủ, từ nay hai thầy âm dương chúng ta đã được ghi tên trong sổ rồi. Làm vậy sau này dưới âm gian có nhiều chỗ tiện lắm. Tôi thấy chuyện này trong quyển sổ tay tổ tiên nhà tôi để lại, chỉ là mấy hôm nay bận quá nên giờ mới nhớ ra thôi.” 

Vãi!! Một bước sai, hối hận ngàn năm!!! Tôi thật muốn khóc luôn rồi, mẹ kiếp, không ngờ chỉ vì sơ sẩy một chút mà bản thân thật sự trở thành “Đệ Nhất Tuyệt Đông Bắc”. Cái tên này nghe cứ như ruộng cao lương trên vùng Hoàng Thổ, càng nghĩ càng thấy quê mùa không chịu nổi.  

Nói thật, giờ tôi chỉ muốn bóp c.h.ế.t cái tên “Anh Tuấn Hiệp” kia cho hả giận. Tôi vừa định mở miệng c.h.ử.i cho hả thì bỗng khựng lại. Thấy nét mặt tôi khác lạ, lão Dịch liền nhỏ giọng nói: “Ấy da, đừng giận mà, cái tên này nghe oai lắm…”

“Đừng nói gì cả!!” Tôi lập tức ra hiệu im lặng. 

Lão Dịch hiểu ngay, biết có chuyện không ổn, liền ngậm miệng không dám hé răng.

Sở dĩ tôi bảo anh ta im lặng là vì đã nghe thấy một âm thanh khác thường, tiếng chim vỗ cánh, kèm theo tiếng kêu loạn xạ. Phải biết rằng, giờ này chim chóc đều đã về tổ, ngoài cú mèo ra làm gì còn loài nào kêu nữa? Chỉ có một khả năng thôi, vị khách của chúng tôi đã đến. 

Hai đứa vội vàng đứng bật dậy, nấp sau một thân cây to, mắt dán chặt về hướng phát ra tiếng động, tim đập thình thịch. Dù sao lão thợ lặn này không phải thứ dễ trêu, chỉ cần sơ sẩy chút thôi là hai mạng chúng tôi toi ngay tại chỗ. 

Rất nhanh, một đàn chim nhỏ từ trong rừng hoảng loạn bay ra, rồi hướng lên núi. Tới rồi!! Tôi nhớ lại cảnh hôm qua suýt mất mạng, không ngờ đêm nay lại phải đối đầu với nó thêm lần nữa. Cảm giác sợ hãi cận kề sinh tử lập tức trào lên trong lòng, thậm chí còn nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch, thình thịch. 

Tôi nắm chặt thanh kiếm đồng tiền, lòng rộn lên một thứ quyết tâm điên rồ. Tới đi, lão quái khốn kiếp, vì sự nghiệp bốn hiện đại hóa của Tổ quốc mà cống hiến đi! Là một lão cách mạng chân chính, lẽ ra mày phải sớm có giác ngộ ấy rồi chứ. Nào, đến đây đi, tự tay gõ hồi chuông tang cuối cùng của mình đi! 

Sau đó là một loạt âm thanh “ùm ùm”, rừng cây xào xạc, tôi và lão Dịch còn chưa kịp chớp mắt thì đống củi lớn trước mặt bỗng “xẹp” xuống, lão thợ lặn cuối cùng cũng xuất hiện. Nhìn nó vẫn như một bệnh nhân bị viêm khớp nặng, bước từng bước chậm rì rì tiến về phía Tam Thanh Đàn trên tảng đá.  

Lão Dịch đã cầm sẵn chiếc đèn xanh nhỏ, tôi cũng châm mấy huyệt làm “kiếm chỉ”, chuẩn bị tấn công. Nào, tiến thêm chút nữa, tiến thêm chút nữa...hơi thở chúng tôi dồn dập, cảm giác săn mồi kích thích hơn cả việc vớt cá vàng, khi con mồi chui vào bẫy, tim người ta sẽ càng đập nhanh hơn.

Cuối cùng lão quái cũng bước hẳn vào giữa trận. Ngay lúc đó lão Dịch châm đèn xanh, hô to truyền lệnh: 

“Nếu tám cửa gặp Khai, Hưu, Sinh — xin chuông vàng hóa sấm sét giáng xuống! Lâm – Binh – Đấu – Giả – Giai – Trận – Liệt – Tiền – Hành! Mở! Mở! Mở!”

MonkeyD

Email: [email protected]

Liên hệ hỗ trợ: https://www.fb.com/monkeyd.vn

DMCAPROTECTED

Mọi thông tin và hình ảnh trên website đều được bên thứ ba đăng tải, MonkeyD miễn trừ mọi trách nhiệm liên quan đến các nội dung trên website này. Nếu làm ảnh hưởng đến cá nhân hay tổ chức nào, khi được yêu cầu, chúng tôi sẽ xem xét và gỡ bỏ ngay lập tức. Các vấn đề liên quan đến bản quyền hoặc thắc mắc khác, vui lòng liên hệ fanpage: MonkeyD.