Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 94: Sự Yên Ả Trước Tết
Cập nhật lúc: 12/10/2025 15:32
Trong mắt tôi, người nhà họ Lưu phần lớn đều có bản lĩnh. Trước mặt tôi đây là Lưu Vũ Địch, nếu nói em ấy cũng biết Tam Thanh Thư thì tôi cũng chẳng lấy làm lạ. Nhưng điều tôi vẫn không tài nào hiểu nổi chính là Tam Thanh Bốc Toán chẳng phải đã bị chú cả Lưu mang đi rồi sao? Hơn nữa, di nguyện sau khi Lưu tiên sinh qua đời là con cháu của mình tuyệt đối không được dính vào thuật bói toán nữa.
Lúc thấy tôi đọc ra bài thơ tín vật kia, Lưu Vũ Địch liền sững người. Đối phương hỏi:
“Anh nói cái gì cơ?”
Thấy em ấy hình như chưa nghe rõ, tôi lại khẽ nói:
"Tổ sư linh bảo sở tại cung……”
Lưu Vũ Địch tỏ vẻ rất khó hiểu, hỏi lại tôi:
“Cái gì mà cung… cung gì ấy?”
Tôi có chút sốt ruột:
“Không phải ‘cái cung’ gì đâu… mà là ‘sở tại cung’, câu này là nói… ầy, thôi bỏ đi, em đã từng nghe qua câu thơ này chưa?”
Đối phương ngơ ngác đáp:
“Chưa nghe bao giờ, thơ gì thế, nào là cung với chả tinh. Tiểu Phi Phi, anh hư rồi à?”
Trời ạ, cô nhóc này lại nghĩ đi đâu thế không biết. Sao mấy cô gái bây giờ dày dạn sớm thế này, làm tôi đỏ cả mặt.
Thế nhưng, Lưu Vũ Địch đã không biết bài thơ tín vật, vậy thì chứng tỏ em ấy không hiểu Tam Thanh Thư. Nghĩ đến đây, trong lòng tôi vừa thấy nhẹ nhõm, lại xen lẫn chút hụt hẫng. Xem ra muốn tìm nữ quỷ bỏ trốn kia cũng không dễ dàng. Nhưng nghĩ kỹ thì như thế cũng tốt, bởi Tam Thanh Thư đâu phải dễ học, cái giá phải trả thật sự quá lớn. So với trước kia thì giờ đây tôi mới hiểu được vì sao năm đó Lưu tiên sinh lại lập ra di nguyện ấy.
Suy cho cùng, thiên đạo không phải thứ mà phàm nhân có thể nhòm ngó. Đây là một môn học về sự trao đổi ngang giá, mà cái giá để đổi lại thì quá nặng nề. Một khi đã bước lên con đường này thì chẳng còn đường quay lại nữa.
Thấy Lưu Vũ Địch chẳng biết đầu đuôi ra sao, tôi bèn nói bừa:
“Hư cái gì chứ, anh nói là thơ của nhà thơ vĩ đại sau chủ nghĩa hiện đại, Nicholas Quảng Khôn đó, câu thơ kinh điển, giờ đang thịnh hành lắm, em chưa từng nghe à?”
Lưu Vũ Địch lắc đầu hỏi lại:
“Nicholas Quảng Khôn? Chưa từng nghe, ông ta là ai vậy?”
Trong lòng tôi buồn cười muốn chết, nghĩ thầm chính là Nicholas Tạ Quảng Khôn thôi mà, thuận miệng bịa một câu mà con bé này lại tin thật.
Tôi bèn nói:
“Nicholas Quảng Khôn á, là cha của Prague Vĩnh Cường đấy. Thôi, không nói chuyện này nữa, em nói cho anh biết đi, sao em nhìn ra được trong hộp cơm có sâu vậy?”
Đối phương thấy tôi hỏi thì giả vờ thần bí đáp:
“Không nói cho anh đâu, anh cứ coi như đó là trực giác của phụ nữ đi, hì hì.”
Được rồi, cô nhóc này còn bày đặt bưng bát cơm cho tôi, không nói thì thôi, anh đây cũng chẳng rảnh mà quan tâm.
Tôi lấy từ trong túi ra một chai nước tinh khiết, nửa con sâu lúc nãy thật sự làm tôi buồn nôn, nhưng không hiểu sao bụng vẫn còn cảm giác chưa ăn no, thậm chí hơi đói nữa.
Chẳng lẽ con sâu trong rau còn có công dụng kích thích vị giác sao?
Nhưng có đ.á.n.h c.h.ế.t tôi cũng không dám ăn tiếp mấy món trong hộp cơm đó nữa. Cơm thì còn tạm, vẫn ăn được. Tôi đành bất lực lôi từ trong túi ra hai cây “Hồng Xúc Xích” của Cáp Nhĩ Tân.
Cái “Hồng Xúc Xích” này là đặc sản chính hiệu đấy. Nói đến món ăn kinh điển nhất ở Cáp Nhĩ Tân thì chính là xúc xích đỏ và xúc xích khô. Vị của xúc xích đỏ là vị tỏi, bên trong còn có nhiều miếng mỡ thái hạt lựu, ăn với rượu thì cực kỳ hợp, phối cùng bia thì phải gọi là mê ly. Chỉ có điều đắt quá. Một trăm tệ mua được có mấy cây. Lần này về quê, tôi c.ắ.n răng mua hẳn ba trăm tệ, đau cả ruột.
Lưu Vũ Địch thấy tôi lấy ra đặc sản thì ánh mắt thay đổi hẳn, trố mắt nhìn tôi chằm chằm. Tôi nghĩ thầm, cái tật thèm ăn ấy đúng là chưa bỏ được. Thế là tôi đưa cho cô nhóc một cây. Đang định há miệng c.ắ.n một miếng, chợt thấy bên kia có một người phụ nữ bế con. Đứa trẻ trong lòng chị ấy rõ ràng cũng không ăn nổi hộp cơm trên tàu. Vậy nên, tôi lại bẻ một nửa đưa cho đứa bé.
Lưu Vũ Địch mỉm cười nói với tôi:
“Tiểu Phi Phi, không ngờ tính cách của anh vẫn chẳng đổi chút nào.”
Tôi vừa nhai xúc xích đỏ vừa hỏi:
“Tính cách gì cơ?”
Lưu Vũ Địch bẻ một miếng nhỏ xúc xích bỏ vào miệng, rồi mỉm cười nhìn tôi:
“Miệng cứng, lòng mềm.”
Bốn chữ ấy đúng là chọc thẳng vào chỗ sâu kín trong lòng tôi, haizz.
Từ nhỏ, cha tôi đã dạy rằng: “Ngươi không phạm ta, ta không phạm ngươi. Nhưng làm việc thì phải cứng rắn, không cứng thì chẳng đứng vững nổi.” Tôi luôn cảm thấy lời cha chẳng có chút sức thuyết phục nào, vì tính ông cũng mềm yếu, chỉ có miệng là chẳng chịu thua ai.
Thì ra cái số đen đủi của tôi cũng là do di truyền cả.
Nghĩ cũng buồn, thôi chẳng nghĩ nữa. Tôi hỏi Lưu Vũ Địch:
“Đúng rồi, lần này em về nhà có mang gì không?”
Lưu Vũ Địch lắc đầu, nói:
“Không, tháng này tiêu hoang quá, hết tiền rồi nên chẳng mua gì cả.”
Tôi thầm nghĩ con bé này đúng là tệ, một năm mới về nhà một lần mà lại tay không thế này thì thật chẳng phải phép. Nghĩ ngợi một lúc, tôi bèn lấy cái túi dưới ghế ra, chia một nửa chỗ xúc xích đỏ mình mua đưa cho em ấy, rồi nói:
“Cầm lấy đi, cứ nói là em mua. Bà cụ tuổi đã lớn, để bà vui một chút.”
Lưu Vũ Địch hơi sững lại, không ngờ con bé này cũng có lúc ngượng ngùng. Khuôn mặt em ấy hơi đỏ, nói với tôi:
“Anh làm gì thế, ngại lắm đấy.”
Tôi bảo: “Với anh thì khách sáo gì nữa. Từ bé đã chơi với nhau, hơn nữa nhà họ Lưu các em có ân với nhà họ Thôi. Cứ coi như đây là chút tấm lòng anh dành cho bà cụ thôi. Qua Tết, nếu nhà anh sang nhà em chơi, anh cũng đi theo một chuyến.”
Thấy tôi chân thành như vậy, không biết vì sao, mặt Lưu Vũ Địch lại càng đỏ hơn, không tiện từ chối nữa nên đành nhận lấy.
Ăn xong, hai chúng tôi lại tiếp tục trò chuyện, mà nói chuyện với mấy cô gái nhỏ thế này cũng chỉ quanh quẩn chuyện ăn mặc, sinh hoạt thôi. May mà tôi trời sinh miệng dẻo, cứ tám nhảm cho qua. Trời mưa, rảnh rỗi thì buôn, cũng coi như g.i.ế.c thời gian.
Chừng bốn, năm tiếng sau, tàu đến Long Giang. Tôi đứng dậy xách đồ, nói với Lưu Vũ Địch:
“Trước tiên chúc em Tết vui vẻ nhé, anh đến nơi rồi, qua Tết sẽ lại sang thăm em.”
Lưu Vũ Địch gật đầu, cười nói:
“Ừ, Tiểu Phi Phi, tạm biệt nhé.”
Tôi chỉ còn biết cười khổ. Bước xuống tàu, trong lòng nghĩ con bé này chắc không sửa được rồi, thôi kệ, Tiểu Phi Phi thì Tiểu Phi Phi. “Tiểu Phi” biến thành “Tiểu Phí” cũng được, chỉ có điều phí hơi bị nhiều.
Bao nhiêu năm rồi, quê hương vẫn chẳng đổi thay. Vừa xuống xe đã ngửi thấy mùi đất đậm đà. Về tới cái huyện nhỏ bé này, lòng lại cảm thấy yên ổn lạ thường.
Có lẽ sau này nếu phiêu bạt mệt mỏi thật, tôi sẽ trở về đây. Bởi nơi này là gốc rễ của tôi. Phì phì, tôi mới bao nhiêu tuổi đâu mà đã nghĩ như ông già thế này rồi.
Ra khỏi cửa ga, tôi thấy bố đã đứng đợi sẵn ở đó. Bao nhiêu năm rồi, lần nào về nhà ông cũng ra đón tôi. Nhìn bóng dáng hơi còng của bố, không còn là người đàn ông vạm vỡ trong mắt tôi thuở nhỏ nữa, mũi tôi bỗng cay xè. Nghĩ đến những chuyện đã xảy ra trong năm nay, suýt chút nữa tôi đã không còn cơ hội trở lại Long Giang này.
Đã có lúc tôi thật sự nghĩ đến cái chết. Khi đó không thấy sợ, nhưng lúc này bất chợt lại thấy run rẩy, thấy nỗi sợ len lỏi vào tim. Hóa ra tôi không phải chẳng còn gì cả. Tôi vẫn còn quê hương, còn nhà, còn bố, còn bà.
Sợi dây tình thân này mãi mãi không thể xóa nhòa.
Tôi vội lau đi giọt nước mắt chưa kịp rơi, cười hề hề nhào tới ôm bố. Bố thực sự đã già rồi. Nhớ hồi xưa ông có thể cõng tôi đi học nhẹ nhàng, mà giờ tôi vừa sà vào người đã thấy ông hơi loạng choạng.
Bố tôi cười nói:
“Nhóc con, ở Cáp Nhĩ Tân lạnh không, sao mặc ít thế?”
Tôi cũng cười:
“Không lạnh đâu, còn ấm hơn quê mình ấy chứ.”
Theo bố về đến nhà, tôi thấy bà nội vẫn chưa ngủ, cứ chờ tôi về. Nhìn bà, tim tôi lại dâng lên cảm giác khó tả.
Mỗi lần tôi về, bà nội đều vuốt ve đầu tôi, thương xót nói:
“Tiểu Phi lại gầy nữa rồi.”
Bà đã gần tám mươi tuổi mà vẫn nhớ thương tôi như vậy, sao tôi không chạnh lòng cho được. Tôi vội quay mặt đi để bà không phát hiện mình đang khóc, lau nước mắt xong, tôi liền lấy ra những thứ mang về: xúc xích đỏ Cáp Nhĩ Tân, các loại hạt khô mua cho bà, và cả t.h.u.ố.c lá mua cho bố.
Bà nội nhìn thấy tôi xách bao nhiêu đồ về, vừa trách yêu vừa thương xót:
“Cháu mua nhiều thế này làm gì, bà cũng ăn được bao nhiêu đâu. Tiền cứ để mà mua lấy cái áo mặc cho ấm.”
Bố tôi cầm bao t.h.u.ố.c lá tôi mua, cười hề hề nói với bà:
“Mẹ cứ nhận đi, tấm lòng của cháu nó mà.”
Thật ra tôi biết bà nội vẫn rất vui, chỉ là ngoài miệng nói vậy thôi. Bà quay sang hỏi tôi:
“Lần sau đừng mua nữa nhé. Mà cháu còn tiền không đấy?”
Tôi biết bà sợ tôi túng thiếu nên đáp ngay:
“Bà đừng lo, giờ cháu tự lo được cho mình rồi.”
Bà nội thấy tôi lần này trở về đã chững chạc hơn trước, bèn gật gù, nói:
“Ở ngoài đừng để mình bị thiệt thòi đấy. Thôi, chưa ăn cơm phải không, bố cháu đã chuẩn bị rồi, ăn chút đi rồi ngủ, cũng gần mười hai giờ rồi.”
Tôi gật đầu, đi vào phòng bố. Ông như thường lệ đã chuẩn bị vài món nguội, thêm mấy chai bia. Bia ở quê uống vào mát lạnh sảng khoái, chẳng giống ở thành phố. Đêm hôm đó, tôi với bố nói chuyện rất nhiều, dù có vài chuyện không thể kể, nhưng trong lòng cũng thấy nhẹ nhõm hẳn.
Ở nhà, ngày tháng lúc nào cũng dễ chịu, chẳng phải nấu cơm, chẳng lo yêu ma quỷ quái, chỉ ăn với ngủ thôi mà cũng thấy sung sướng.
Thoắt cái, Tết đã đến rồi.
Lại nói, trong một năm thì khoảng thời gian an toàn nhất chính là Tết. Nhưng thật ra ngày xưa, đêm ba mươi lại chẳng hề yên ổn như bây giờ. Người ta truyền rằng đêm ấy đủ loại yêu ma quỷ quái đều sẽ lộ diện. Ma không nhà thì đi tìm chỗ nương thân, quỷ thế mạng thì rình rập kiếm kẻ thế thân, có cả thứ quỷ “đao lao” chuyên thích ăn thịt người… Tóm lại, vào cái đêm cuối cùng của năm, bọn chúng đều muốn nhân cơ hội vơ vét chút lợi lộc. Thế nhưng sức dân là vô cùng lớn, chẳng biết là ai nghĩ ra được một chiêu “ác hiểm” mà lại hữu hiệu đến thế, đó chính là đốt pháo.
Đúng vậy, pháo tống, pháo dây, pháo hai tiếng, pháo thăng thiên… đủ loại. Cái này lợi hại vô cùng, bất kể là thứ bẩn thỉu tà ma nào nghe thấy cũng phải vội vàng bỏ chạy. Thế nên, ba mươi Tết lại trở thành ngày khiến bọn quỷ quái khổ sở nhất, bởi nhà nhà đều đốt pháo, nổ vang trời, dọa chúng phải co rúm, trốn biệt trong những chỗ hoang vắng, chẳng dám bén mảng ra hại người nữa.
Vốn dĩ tôi định bụng năm ấy sẽ được ăn một cái Tết yên lành, thoải mái, ai ngờ vận xui lại cứ bám riết. Ngay trong dịp Tết, tôi lại gặp phải một chuyện vô cùng kỳ quái.
