Cuốn Vương Ở Thập Niên 60[ Mang Theo Một Xe Vật Tư Nuôi Gia Đình Ở Thập Niên 60] - Chương 30:-------
Cập nhật lúc: 24/12/2025 00:04
Hứa Phượng Đài vừa nghe liền hiểu, chắc là Vương Căn Sinh làm ăn phi pháp (kiếm tiền đen) mới có mấy thứ này.
Anh lặng lẽ nhận lấy hai cái bình giữ nhiệt, dùng nan tre đan từng vòng từng vòng, bọc kín mít quanh thân bình.
Hứa Minh Nguyệt hào phóng nói: "Anh cả, cái bình to này anh cứ giữ lấy dùng. Nó chứa được nhiều nước, sau này anh đi đắp đê hay đi Thán Sơn thì cũng có ngụm nước ấm mà uống." Sợ Hứa Phượng Đài không dám nhận, cô nói nhỏ thêm một câu: "Em vẫn còn, em biết chỗ lấy thêm được."
Hứa Phượng Đài giật mình thon thót: "Lan Tử, em đừng có làm chuyện gì nguy hiểm đấy nhé, nhà mình bây giờ thế này là tốt lắm rồi."
Anh cứ sợ Hứa Minh Nguyệt tìm Vương Căn Sinh uy h.i.ế.p chuyện hắn làm ăn phi pháp, hoặc là bắt chước hắn đi buôn lậu.
Hứa Minh Nguyệt vội thì thầm cam đoan: "Anh cả yên tâm đi, em không làm chuyện nguy hiểm đâu!"
Nhưng Hứa Phượng Đài vẫn không yên tâm. Không biết có phải do lần nhảy sông tự t.ử kia khiến cô coi thường sống c.h.ế.t hay không, mà lá gan của cô ngày càng lớn. Em gái càng liều lĩnh, anh càng lo sốt vó.
Đan xong vỏ bình, Hứa Minh Nguyệt lấy gừng già và đường phèn nấu nước gừng. Không có đường đỏ nên đành dùng đường phèn thay thế.
Thực ra phích nước nóng ở thời đại này cũng đã phổ biến, ngoại hình cũng na ná cái bình Hứa Phượng Đài vừa bọc tre, đều có lớp vỏ tre bảo vệ bên ngoài. Nhà đại đội trưởng Hứa có một cái, quý như vàng. Ở nông thôn phích nước hiếm không phải vì không mua nổi, mà vì không có phiếu. Đương nhiên, giá của nó cũng đắt đỏ là một phần nguyên nhân.
Nếu Hứa Phượng Đài mang cái phích nước nhỏ ra bãi sông, mọi người thấy có phích nước, chắc chắn sẽ xúm lại xem và xin nước uống.
Hứa Phượng Đài không muốn gây chú ý. Dù Hứa Minh Nguyệt khuyên thế nào, anh cũng không chịu mang bình nước lớn về nhà mới, bắt cô phải giấu kỹ, đừng để người khác thấy. Hai cái bình nhỏ, anh cũng chỉ dám mang theo một cái. Anh buộc dây vào vỏ tre, đeo bình nước giấu trong áo. Khi uống nước, lớp vỏ tre che khuất nên người khác không nhìn thấy ruột bình bên trong, lại thấy bình nhỏ nên cũng ngại xin.
Nếu ai thấy hơi nước bốc lên, anh có thể viện cớ trời lạnh, áo mỏng, nên phải ủ bình nước trong bụng cho ấm, chứ không thì lạnh không chịu nổi. Không chỉ mình anh, nhiều người không chịu được rét cũng làm thế.
Trước khi Hứa Phượng Đài đi đầm Hà Vu, Hứa Minh Nguyệt còn kéo anh vào phòng, dán một miếng cao dán giữ nhiệt (ấm bảo bảo) vào lưng quần anh.
Cô chỉ tích lũy được tổng cộng mười lăm miếng dán giữ nhiệt. Cô dán cho anh một miếng ở thắt lưng, hai miếng ở hai bên đầu gối. Như vậy khi anh lội xuống bùn lạnh buốt ở đầm Hà Vu, miếng dán sẽ cung cấp chút hơi ấm cho chân, dù vẫn lạnh nhưng có còn hơn không.
Sống ở thời đại này, biết làm sao được?
Không phải cô không cho Hứa Phượng Phát, mà là thứ này số lượng có hạn, mỗi tháng mới có thêm năm miếng. Hơn nữa Phượng Phát còn nhỏ, nhiều thứ cô không dám cho nó biết. Giống như vụ nó đi khoe áo len với bạn bè, Hứa Minh Nguyệt sợ nó ra ngoài lại lỡ mồm.
Thời này người ta lùng bắt đặc vụ, gián điệp ghê lắm. Cô có mấy món đồ vượt thời đại, nếu để người có tâm nhìn thấy thì cô có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng không rửa sạch tội.
Ban đầu Hứa Phượng Đài tưởng đó là cao dán giảm đau, nhưng thấy miếng dán dính vào quần áo chứ không dính vào da. Mãi đến khi ra khỏi cửa một lúc, cảm giác ấm áp lan tỏa từ thắt lưng và đầu gối truyền đến, ban đầu anh tưởng ảo giác, sờ thử mới xác định là thật. Thứ em gái dán cho anh như một cái túi sưởi nhỏ, mang lại hơi ấm dễ chịu vô cùng.
Anh không biết đó là cái gì, cũng không biết em gái lấy ở đâu, anh chỉ biết chắc chắn một điều: em gái sẽ không hại mình.
Anh cũng muốn dán cho Phượng Phát một miếng, nhưng thằng bé mới mười hai tuổi, đồ của em gái rõ ràng không thể để lộ ra ngoài. Không hiểu sao anh lại cảm nhận được, tình cảm em gái dành cho anh khác hẳn với Phượng Liên, Phượng Phát hay bà cụ.
Dường như cô luôn vô thức xếp Phượng Phát và bà cụ xuống vị trí cuối cùng, đôi khi còn lơ là họ. Ví dụ như lọ "sáp nẻ", cô không đưa cho Phượng Liên hay Phượng Phát - những đứa trẻ thường dùng sáp nẻ, mà lại đưa cho anh.
Hứa Phượng Đài tự lý giải rằng do hai anh em trạc tuổi nhau, từ nhỏ cô đã thấu hiểu nỗi vất vả của anh khi gánh vác gia đình nên thương anh nhất. Nghĩ vậy, lòng anh ấm áp lạ thường.
Anh cũng nhận ra các em đã thực sự trưởng thành, đang dốc sức chia sẻ gánh nặng gia đình cùng anh.
Giữa trời đông giá rét (tam cửu), anh bước đi bên bờ sông lộng gió mà bước chân nhẹ tênh.
Vốn tưởng miếng dán cũng như túi nước nóng, chỉ ấm được khoảng một tiếng, ai ngờ đến chiều tối về nhà, sờ vào thắt lưng vẫn thấy ấm!
Có miếng dán giữ nhiệt, có bình nước gừng đường phèn em gái chuẩn bị, lại có thể uống nước ấm bất cứ lúc nào, Hứa Phượng Đài làm việc hăng say không biết mệt mỏi, cảm thấy cuộc sống tràn đầy hy vọng!
Trên người anh toát ra một nguồn năng lượng khó tả, khiến vẻ mặt khắc khổ, chai sạn thường ngày dần tan biến, thay vào đó là nụ cười và ánh mắt rạng ngời.
* Trong khi cả đại đội Lâm Hà đang lo lắng và tích cực chuẩn bị ứng phó với thời tiết bất thường của mùa đông năm nay, thì phong trào tuyên truyền cho nhà ăn tập thể lại diễn ra rầm rộ trên báo đài.
Báo chí đăng tải những khẩu hiệu như: "Ăn cơm không mất tiền, già trẻ đều hân hoan. Lao động càng tích cực, hạnh phúc vạn năm dài."
Sau khi khẩu hiệu được đưa ra, công xã triệu tập bí thư các đại đội lên họp: "Phải hưởng ứng khẩu hiệu, giải phóng phụ nữ khỏi công việc nội trợ! Tập trung toàn bộ sức lực và lao động vào sản xuất nông nghiệp của đại đội, dẫn dắt nhân dân tiến tới cuộc sống tập thể hạnh phúc hơn, tiếp tục bồi dưỡng và rèn luyện tư tưởng chủ nghĩa tập thể cho quần chúng."
Nhận lệnh cấp trên, thấm nhuần tinh thần chỉ đạo, bí thư đại đội trở về thôn Giang gia bắt đầu triển khai tuyên truyền.
Chủ yếu là trong các lớp học buổi tối, dạy mọi người hát bài "Ăn cơm không mất tiền".
Đặc biệt, báo chí còn cổ vũ: "Ăn no căng bụng, dốc hết nhiệt tình làm sản xuất!"
Thế là, trong khi cả thôn Hứa gia đang thắt lưng buộc bụng, ngày hai bữa cháo loãng, thì thôn Giang gia bên cạnh lại ăn ngày ba bữa cơm củ sen no nê!
Uy tín của đại đội trưởng Hứa lập tức tụt dốc không phanh. Ngay cả người thôn Hứa gia cũng không hiểu tại sao báo chí bảo "ăn uống thả cửa" mà thôn mình lại phải bóp mồm bóp miệng uống cháo, cực khổ đi đào củ sen giữa trời lạnh giá, đói đến hoa cả mắt.
Vốn dĩ việc sản xuất do đại đội trưởng Hứa phụ trách, ông đã bảo phụ nữ, trẻ em, người già đào củ sen không cần nộp cho tập thể. Nhưng sau cuộc họp trên công xã, bí thư đại đội yêu cầu tất cả xã viên phải nộp toàn bộ củ sen đào được vào kho chung.
Lập tức, người thôn Giang gia đang hừng hực khí thế đào củ sen bỗng chán nản. Đào làm gì nữa? Nhà ăn ngày ba bữa cơm củ sen no nê, họ đâu thiếu ăn, tội gì phải hùng hục đào củ sen cho mệt? Đằng nào làm nhiều cũng là làm hộ mấy kẻ lười biếng hưởng.
Trời lạnh thế này, phụ nữ, trẻ em, người già trong thôn lười chẳng buồn ra ngoài đào nữa, ai nấy chạy về nhà trốn rét.
Chỉ còn lại người thôn Hứa gia đứng ngơ ngác nhìn nhau giữa đầm Hà Vu.
Đại đội trưởng Hứa tức điên người, c.h.ử.i đổng: "Giang Thiên Vượng (tên bí thư), thằng ch.ó c.h.ế.t này!" Rồi ông quay sang quát người trong thôn đang đứng ngây ra: "Đứng thộn ra đấy làm gì? Họ là họ, các người là các người! Lời hứa trước đây vẫn giữ nguyên, các người tưởng đang làm cho tôi à? Là làm cho cái bụng của các người đấy! Đào đi cho tôi!"
Đại đội trưởng Hứa có cha làm trưởng thôn mấy chục năm, từng dẫn dắt cả thôn đ.á.n.h đuổi giặc Nhật, đưa mọi người vào núi lánh nạn, uy tín cực cao. Bản thân ông trong những năm hạn hán và tranh chấp đất đai cũng đã dẫn dắt dân làng "đông chinh tây phạt", đ.á.n.h nhau với thôn Giang gia, đại đội Kiến Thiết, tạo nên danh tiếng lẫy lừng cho thôn Hứa gia, nhờ đó mà vượt qua cả anh cả để lên làm trưởng thôn, rồi sau này là đại đội trưởng khi thành lập hợp tác xã.
Lúc này ông quát lớn một tiếng, dù nhiều người nhìn sang thôn Giang gia ăn uống no say mà ấm ức trong lòng, nhưng cũng không dám ho he, đành cầm xẻng miễn cưỡng đào củ sen, nhưng oán khí đối với đại đội trưởng đã lên đến đỉnh điểm.
Tuy nhiên, người già, phụ nữ và đám thanh niên choai choai nhà họ Hứa lại vô cùng phấn khởi, nhiệt tình đào củ sen mang về nhà.
Thôn Hứa gia bên này khí thế ngất trời; thôn Giang gia thì no cơm ấm cật nên lười biếng, làm việc cầm chừng, còn cười nhạo người thôn Hứa gia là đồ không não.
"Một lũ man rợ, chỉ biết cắm đầu làm bừa!"
"Lão Hứa Kim Hổ (đại đội trưởng) vốn là kẻ man rợ mà, năm nào tranh nước chả thấy hắn cầm đầu!"
Trước khi làm đại đội trưởng, những năm thiếu nước, ông ta dẫn người thôn Hứa gia đi tranh nước với thôn Giang gia. Khi lên làm đại đội trưởng, ông ta lại dẫn cả đại đội Lâm Hà đi tranh nước, tranh núi với đại đội Kiến Thiết.
Thôn Hứa gia và thôn Giang gia tuy cùng một đại đội nhưng là hàng xóm "oan gia", kết oán đã lâu. Chủ yếu do người thôn Hứa gia quá ngang ngược bá đạo. Thôn Giang gia cũng là thôn lớn nhưng trong mắt dân làng quanh vùng, thôn Hứa gia vẫn là "thứ dữ" nhất.
Trưởng thôn già của thôn Hứa gia nhìn thấy tờ báo nọ, tức giận đập mạnh tờ báo xuống bàn: "Nói láo toét!" Ông cụ tuy già nhưng tính khí vẫn nóng nảy: "Lương thực chỉ có từng ấy, ăn uống thả cửa thì sau này hít khí trời mà sống à?"
Nhưng ông chỉ là một lão nông cả đời quanh quẩn ở cái trấn Thủy Phụ bé nhỏ và huyện lỵ, nơi xa nhất từng đi cũng chỉ là thành phố lân cận. Nên chuyện "mẫu sản vạn cân" trên báo, ông cũng không dám chắc là thật hay giả. Với suy nghĩ mộc mạc, ông tin báo chí sẽ không nói bậy.
Ông chỉ chắc chắn một điều: ruộng đất thôn Hứa gia, năng suất còn chưa đến 500 cân một mẫu, bình thường chỉ tầm hơn 300 cân. Nghe đến "mẫu sản vạn cân" cứ như chuyện trong mơ vậy.
Ông nằm mơ cũng không dám mơ như thế.
* Chuyện người đại đội Lâm Hà đào củ sen ở đầm Hà Vu, đại đội Thạch Giản và đại đội Kiến Thiết bên cạnh đều thấy cả. Nhưng hai đại đội này cũng đang hưởng ứng lời kêu gọi cấp trên, tuyên truyền phong trào "ăn cơm không mất tiền, già trẻ đều hân hoan". Họ không những không đi đào củ sen mà còn cười nhạo sau lưng, cho rằng người thôn Hứa gia là lũ ngốc.
Người thôn Hứa gia từ già đến trẻ chẳng thèm quan tâm, miễn sao no bụng là được. Đại đội trưởng đã bảo phụ nữ trẻ em đào được không cần nộp kho, họ cứ thế ngày ngày đào, chất đầy củ sen vào hầm nhà mình.
Nhà mới của Hứa Phượng Đài chưa có hầm, hầm dưới gầm giường nhà cũ đã đầy ắp, nên số củ sen Hứa Phượng Phát đào được đều chuyển sang hầm nhà Hứa Minh Nguyệt.
Hầm nhà cô rộng, bằng phẳng, bốn phía xây gạch trát xi măng, cửa hầm đậy bằng chum to kín mít, chuột không chui lọt, để củ sen trong đó rất yên tâm.
Bên trong còn có rất nhiều chum vại lớn, vốn để ở phòng ngủ của Phượng Phát giờ chuyển hết xuống hầm, đậy nắp gỗ kín mít. Hầm tối om như hũ nút, giơ tay không thấy ngón, chẳng ai biết trong chum đựng cái gì.
Chị cả rất ghét người khác tự tiện vào phòng, động vào đồ của chị, bảo thế là bất lịch sự.
Người thời này thường không có ý thức về ranh giới cá nhân (biên giới cảm), đi làm khách nhà người ta cứ sấn vào xem trong tủ có gì, thậm chí tự tiện lục lọi. Dù hiện tại chưa có ai đến núi hoang làm vậy, nhưng lớn lên ở nông thôn, Hứa Minh Nguyệt hiểu rõ điều này. Mỗi lần ra ngoài cô đều khóa cửa, kể cả khi ở nhà cũng đóng cửa then cài.
Không biết tại sao, Hứa Phượng Phát hơi sợ chị cả. Khi ngủ lại ở núi hoang, cậu bé nằm im thin thít, chưa bao giờ dám lục lọi đồ đạc của chị.
Chẳng mấy chốc đã đến cuối năm 1958. Cũng chính cuối năm này, oán khí của người dân thôn Hứa gia đối với đại đội trưởng lên đến đỉnh điểm, có thể nói là lòng dân ly tán.
