Cuốn Vương Ở Thập Niên 60[ Mang Theo Một Xe Vật Tư Nuôi Gia Đình Ở Thập Niên 60] - Chương 50

Cập nhật lúc: 25/12/2025 11:22

Cả nhóm Hứa Phượng Đài, Hứa Phượng Khởi đều cảm nhận được điều bất thường.

Các thôn xung quanh như bị mù, không thấy thời tiết năm nay dị thường, chẳng hề có chút chuẩn bị nào.

Lúc về, Hứa Phượng Khởi khó hiểu hỏi vợ đại đội trưởng: "Thím Hai, với kiểu ăn uống của họ thì lương thực có chống nổi đến vụ thu hoạch mùa thu năm nay không ạ?"

Dù hôm nay được ăn no nê thỏa mãn, nhưng trong lòng họ cũng nơm nớp lo sợ.

Cảm giác giống như đang đứng bên bờ vực thẳm vạn trượng, nhưng mọi người xung quanh lại vô tư nhảy múa hát ca như không có chuyện gì.

Vợ đại đội trưởng lo lắng khôn nguôi. Ăn xong, bà ta liền nói chuyện riêng với mấy anh em ruột, khuyên họ đi đào thêm củ sen cất vào hầm, hoặc làm thật nhiều bột củ sen để dự trữ.

Thực ra mấy đại đội lân cận, chịu ảnh hưởng từ đại đội Lâm Hà, sau Tết cũng đã tổ chức nhân lực ra bãi sông đào ngó sen.

Chỉ có điều họ mắc chung một vấn đề với thôn Giang gia: ăn cơm tập thể nên dân tình làm việc chẳng tích cực. Đào thì có đào, nhưng hiệu suất chưa bằng một phần năm người thôn Hứa gia.

Cán bộ đại đội thấy dân đã đi đào, lương thực có tăng thêm thì cũng chẳng nói gì nữa.

Tại sao người nhà họ Triệu lại khen vợ đại đội trưởng là người khôn ngoan nhất họ Triệu? Vì sau một hồi bàn bạc, họ quyết định nghe lời bà ta: đi trộm đào củ sen và trộm làm bột củ sen tích trữ riêng.

Không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất, đúng không?

Đến khi họ lén lút ra bãi sông đào trộm vào ban đêm mới phát hiện ra, ở đó đã có người khác đang hì hục đào từ đời nào rồi. Chỉ có điều người thời này đa phần bị quáng gà, cách nhau hai ba mươi mét, ai nấy đều im thin thít, có chạm mặt cũng chẳng nhận ra ai với ai.

Vì cô dâu chú rể đều đã "lớn tuổi", hôn kỳ được định rất gấp rút. Ngày Rồng ngẩng đầu (mùng 2 tháng 2 âm lịch) được chọn là ngày lành để tổ chức đám cưới.

Trước ngày cưới, cứ cách vài hôm Hứa Phượng Đài lại dậy sớm chèo thuyền sang thôn Triệu gia giúp bố vợ tương lai gánh nước, bổ củi. Đến giờ làm việc anh lại vội vàng chèo về cho kịp giờ.

Cũng may đang là mùa nông nhàn, anh lại là viên chức ghi công điểm nên mới có thời gian đi làm công quả như thế. Việc này kéo dài đến tận tiết Kinh Trập mới kết thúc.

Bởi vì vào tiết Kinh Trập, tiếng sấm mùa xuân cuối cùng cũng vang lên, mang theo cơn mưa đầu tiên của mùa xuân.

Vô số người dân đang ngóng chờ vụ xuân ùa ra khỏi nhà, reo hò nhìn ông trời ban mưa xuống.

Tục ngữ có câu "Kinh trập sớm, Thanh minh muộn, Xuân phân gieo hạt", lại có câu "Kinh trập trồng dưa, mọc lên như nấm". Kinh trập đến đồng nghĩa với việc vụ xuân bắt đầu.

Tiếc là cơn mưa này cũng chỉ lất phất như hai trận mưa mùa đông, chỉ đủ làm ướt mặt đất một chút rồi tạnh hẳn ngay trong đêm, mây tan mưa tạnh.

Đại đội trưởng Hứa không dám chậm trễ, lập tức dẫn người đi nhận hạt giống, đem ngâm ủ mầm ở hồ nước đầu thôn. Sợ đêm hôm bị trộm, ông còn cắt cử người canh gác bên hồ.

Cơn mưa Kinh Trập tuy nhỏ nhưng cũng đủ để một số loại rau dại nảy mầm.

Hứa Minh Nguyệt từng không hiểu tại sao vùng này chim bay cá lội, mùa xuân rau dại mọc đầy, nào bồ công anh, rau dớn, măng xuân, mùa hạ dưới nước có dây khiếm thực, rau củ ấu, hoa hòe, lại gần sông lớn, thế mà vẫn có bao nhiêu người c.h.ế.t đói, nhất là nhà bà nội cô chỉ còn hai chị em sống sót.

Khi thân ở thời đại này, cô mới thấm thía lời ông nội: Tiết Vũ Thủy (mưa ẩm) mà không mưa thì rau dại, măng xuân, rau dớn... tất cả đều không có.

Muốn đào rau dại ăn ư? Không có mưa thì lấy đâu ra mà đào.

Những thứ này đều cần mưa xuống mới mọc lên tua tủa được.

Chỗ họ còn may mắn là ven sông, độ ẩm cao, dù không mưa thì đất vẫn lấm tấm mọc lên ít rau dại, chỉ là ít hơn mọi năm rất nhiều và cây cũng còi cọc.

Như đại đội Thạch Giản hay những người sống sâu trong núi thì thê t.h.ả.m hơn nhiều. Khô hạn còn đỡ, sợ nhất là cháy rừng.

Cũng chẳng ai ngốc cả. Nói là ăn cơm tập thể, nông sản trồng ra thuộc về tập thể, nhưng mấy thứ rau dại này thì chẳng ai dại dột nộp cho nhà ăn, toàn đào về nhà mình ăn.

Đại đội trưởng thấy cũng mắt nhắm mắt mở cho qua.

Cấm đoán hoặc ép họ nộp vào nhà ăn thì chẳng ai thèm đi đào nữa.

Rau dại cũng chỉ ăn được trong thời gian ngắn, già đi một chút là không nuốt nổi.

Hứa Minh Nguyệt định đào ít rau dại về đổi món cho cả nhà, nhưng ban đầu rau dại không mọc, đến khi mưa xuống mọc lên được một ít thì ngoài đồng đã lúc nhúc trẻ con đi đào.

Hơn nữa, đừng tưởng người thời này không biết ăn rau dại.

Trong mắt đám trẻ con lớn lên cùng cái đói, không có loại rau dại nào là không ăn được. Rau muối (hôi hôi thái), bồ công anh, thanh hao, rau gai... nhiều loại Hứa Minh Nguyệt còn chẳng biết tên, chúng đều vơ sạch mang về nhà.

Tuy nhiên, Hứa Minh Nguyệt phát hiện có một loại rau dại bọn chúng không động đến, đó là rau câu kỷ (cẩu kỷ thái/rau khởi).

Rau câu kỷ ở đây khác với loại được trồng sau này, dây leo có gai dài, không thể tuốt lá bằng tay mà phải ngắt từng ngọn non và mầm.

Trong "Hồng Lâu Mộng", Tiết Bảo Thoa rất thích món rau câu kỷ xào.

Nhưng người thời này không biết quả câu kỷ tươi, lại hay thấy rắn bò qua bụi cây rực rỡ những quả đỏ mọng nên cho rằng đó là quả độc cho rắn ăn, gọi là "ớt nhỏ". Họ cấm tiệt trẻ con ăn quả này, thành ra ngọn rau non mơn mởn đầy đồng cũng chẳng ai hái.

Thế là Hứa Minh Nguyệt được một mình bao trọn cả bãi rau.

Tối đến, chị em Hứa Phượng Liên húp bát canh trứng rau câu kỷ thơm lừng, ngon đến nuốt cả lưỡi: "Ngon quá chị ơi! Đây là rau gì thế ạ? Sao em chưa thấy bao giờ?"

Hứa Minh Nguyệt bảo đó là mầm câu kỷ.

"Mầm câu kỷ là gì?" Trong ánh đèn lờ mờ, nhìn bát canh rau đã nấu chín, họ hoàn toàn không nhận ra là loại rau gì.

Hứa Minh Nguyệt giải thích: "Không biết rau câu kỷ thì chắc cũng nghe nói đến câu kỷ t.ử rồi chứ?"

Tiếc thay, chị em Phượng Liên thật sự chưa nghe bao giờ.

Chỉ có Hứa Phượng Đài từng thấy ở nhà địa chủ, nhưng anh cũng không rõ lắm, chỉ bảo: "Hồi bé nhóm lửa ở bếp nhà địa chủ hình như anh có thấy, họ dùng để pha trà và hầm gà."

Hầm gà tất nhiên không đến lượt anh ăn, nhưng anh từng ngửi thấy mùi thơm nức mũi và nhìn thấy mấy quả khô màu đỏ nổi trong nồi canh.

Hứa Minh Nguyệt gật đầu: "Đúng rồi, đó là quả câu kỷ phơi khô. Câu kỷ t.ử giúp sáng mắt, bổ gan thận, là một vị t.h.u.ố.c bổ rất lành tính." Cô hạ giọng: "Ở đây mọc đầy ra đấy mà không ai biết, em liền hái về ăn!"

Hứa Phượng Liên trố mắt kinh ngạc: "Thật ạ?"

Mọi người không nghi ngờ lời Hứa Minh Nguyệt, dù sao anh rể trước kia cũng là công nhân thành phố, thấy nhiều biết rộng, anh ta biết loại rau này rồi dạy lại cho chị cả cũng là bình thường. Mùa xuân nhà ai chẳng đi đào rau dại?

Nhưng canh rau dại chị cả nấu sao mà ngon thế?

Không ngon sao được? Có gia vị đàng hoàng mà lị!

Tiếc là nồi đất không xào rau được, nếu không cô còn có thể làm món rau câu kỷ xào trứng, nộm rau câu kỷ, rau câu kỷ xào tỏi, canh gan lợn nấu rau câu kỷ... món nào cũng bổ dưỡng.

Tiếc là không có gan lợn.

Gan lợn, tim phổi lợn rất tốt cho bệnh quáng gà. Hiện tại chỉ dựa vào việc ăn cà rốt, bệnh quáng gà của họ có đỡ hơn chút nhưng không nhiều. Chính họ cũng chưa nhận ra là ban đêm mình đã lờ mờ nhìn thấy chút gì đó.

Đến khi Hứa Phượng Liên biết rau câu kỷ chính là cây "ớt nhỏ" có độc trong truyền thuyết, cô bé sững sờ: "Thế... thế chẳng phải chúng ta sắp phát tài rồi sao?"

Trong mắt cô bé, thứ tốt như vậy mà người ta không biết, mình hái về phơi khô đem bán chẳng phải kiếm được khối tiền sao?

Hứa Minh Nguyệt cười không nói, nghĩ một lát rồi động viên em: "Dân quê không biết nhưng người thành phố chắc chắn biết. Đến lúc đó chúng ta lén mang sang thành phố lân cận bán!"

Hứa Phượng Liên gật đầu lia lịa!

Nhưng rau câu kỷ không phải mục tiêu chính của Hứa Phượng Liên. Sau trận mưa nhỏ, măng trên núi và rau dớn (dương xỉ đầu) cuối cùng cũng nhú lên. Hứa Phượng Liên dắt Hứa Phượng Phát lên núi tranh thủ đào măng và hái rau dớn.

Những loại rau này đều có thể phơi khô làm măng khô, rau dớn khô để dành ăn dần.

Cô bé lớn lên trên núi nên biết rõ chỗ nào nhiều rau dớn, Hứa Phượng Phát thì đi đào măng. Hứa Minh Nguyệt cũng không nhàn rỗi, nhân trận mưa xuân này, cô mang nấm hương và nấm trắng tích trữ trước đó ra.

Hứa Phượng Liên nhìn đống nấm thì choáng váng: "Nhiều thế này ạ?"

Hứa Minh Nguyệt tỉnh bơ: "Thế mới gọi là ổ nấm chứ!"

Hứa Phượng Liên vẫn luôn muốn biết ổ nấm chị cả tìm được ở đâu, cô bé lùng sục khắp núi mà chẳng thấy.

Nhưng núi ở đây rộng lớn, là phần đuôi của một dãy núi lớn nổi tiếng, người thạo núi đến mấy cũng không dám vỗ n.g.ự.c bảo mình biết hết mọi ngóc ngách.

Chẳng mấy chốc đã đến ngày Rồng ngẩng đầu. Hứa Minh Nguyệt suy đi tính lại, quyết định mang chiếc áo phao dáng dài màu đỏ rực của mình ra.

Chiếc áo này trước giờ cô không dám lấy ra vì kiểu dáng không phù hợp với thời đại này.

Thứ nhất, nó là dáng ôm (body) dài đến mắt cá chân, lại có đai lưng to bản. Không thắt đai thì còn đỡ vì áo phao vốn phồng, nhưng thắt vào thì nhìn rất "lạc quẻ".

Thứ hai là cổ áo đính lông cáo đỏ rực, mặc vào khéo bị người ta c.h.ử.i là tư sản.

Trước kia cô không cho Hứa Phượng Liên vì con bé thấp quá không mặc vừa (chiếc áo phao dáng rộng màu vàng đất mới hợp nhưng chưa có cơ hội đưa).

Giờ cô lấy ra vì nghĩ anh cả kết hôn, cô dâu mặc áo bông đỏ trong ngày cưới cũng hợp lý chứ nhỉ?

Hiện tại chưa đến giai đoạn 10 năm biến động nghiêm trọng nhất (Cách mạng Văn hóa), mặc đồ quân nhân (xanh lá) là mốt, nhưng những gia đình chú trọng lễ nghi vẫn dán chữ Hỷ, đeo hoa đỏ, có bộ đồ đỏ càng thêm vui.

Cô tháo phần lông cáo ở cổ và phần ren trang trí ở eo ra. Còn chuyện sửa ngắn lại thì cô chịu, đành trông cậy vào tay nghề may vá của chị dâu tương lai vậy.

Cô không để Hứa Phượng Đài mang sang nhà gái ngay mà treo trong tủ quần áo ở phòng anh.

Nếu cô dâu thấp bé không mặc vừa thì mang sang cũng phí, chi bằng để ở phòng tân hôn coi như một bất ngờ.

Hứa Phượng Phát đã chuyển ra buồng nhỏ sau nhà chính. Trong nhà mới đóng thêm một cái giá rửa mặt và tủ quần áo bằng gỗ để đựng đồ của cô dâu. Hiện tại trong tủ chỉ treo độc mỗi chiếc áo phao đỏ rực này.

Bà cụ ngồi trên bậc cửa, cặm cụi cắt giấy đỏ dán cửa sổ hình chữ Hỷ.

Ở đây có phong tục ăn cơm trưa xong mới đi đón dâu (hôn lễ = lễ cưới vào buổi hoàng hôn).

Vẫn là Hứa Phượng Đài cùng các anh em họ chèo ba chiếc thuyền nhỏ đi đón dâu. Không có tiền mua kẹo xịn, anh mang theo ít kẹo ô mai (xí muội) Hứa Minh Nguyệt đưa.

Số kẹo này là do Hứa Minh Nguyệt lấy từ đĩa kẹo miễn phí ở cửa hàng ăn mỗi lần đưa A Cẩm đi ăn. Cô sợ con sâu răng nên kiểm soát đường rất kỹ, nhưng thấy đồ miễn phí thì cứ bốc một nắm (7-8 cái) nhét túi. Chính cô cũng chẳng để ý, lúc soạn quần áo thấy trong túi còn kẹo, cô cứ thế tích lại được khoảng 30 cái, đưa cho Hứa Phượng Đài mang đi.

Không phải không có kẹo ngon hơn, chỉ là không phù hợp để mang ra.

Giữa chừng bị đội nhà gái chặn cửa đòi lì xì, Hứa Phượng Đài hết cách đành phát cho mỗi người một viên kẹo.

Hứa Minh Nguyệt thấy kẹo này chẳng đáng gì, nhưng ở nông thôn, một viên kẹo còn quý hơn 1 xu tiền. Đám người chặn cửa không ngờ được chú rể phát kẹo mừng, ai nấy đều bất ngờ vui vẻ, còn muốn xin thêm.

Nhưng Hứa Phượng Đài ki bo lắm, phát đi mấy viên kẹo mà ruột đau như cắt, đời nào chịu nhả thêm viên nữa?

Bà Triệu (mẹ cô dâu) đang ngồi trong buồng khóc lóc sụt sùi theo tục lệ, thấy con rể tương lai phát kẹo thì nín bặt, sợ chàng rể thật thà quá đem hết kẹo chia cho người ngoài, vội sai con gái út ra mở cửa. Mọi người cười nói vui vẻ ùa vào. Đoàn đón dâu bưng sính lễ Hứa Phượng Đài mang đến đi ra trước, em trai Triệu Hồng Liên cõng chị gái ra cửa lên thuyền hoa.

MonkeyD

Email: [email protected]

Liên hệ hỗ trợ: https://www.fb.com/monkeyd.vn

DMCAPROTECTED

Mọi thông tin và hình ảnh trên website đều được bên thứ ba đăng tải, MonkeyD miễn trừ mọi trách nhiệm liên quan đến các nội dung trên website này. Nếu làm ảnh hưởng đến cá nhân hay tổ chức nào, khi được yêu cầu, chúng tôi sẽ xem xét và gỡ bỏ ngay lập tức. Các vấn đề liên quan đến bản quyền hoặc thắc mắc khác, vui lòng liên hệ fanpage: MonkeyD.