Cuốn Vương Ở Thập Niên 60[ Mang Theo Một Xe Vật Tư Nuôi Gia Đình Ở Thập Niên 60] - Chương 61
Cập nhật lúc: 25/12/2025 23:24
Đại đội trưởng Hứa vội về nhà ăn ăn cơm, không đợi hai mẹ con, ông cũng chẳng hứng thú gì với mấy bài thơ cổ của họ.
Trên đường về, Hứa Minh Nguyệt và A Cẩm nhìn thấy những quả câu kỷ đỏ mọng mọc ven mương, liền dùng chiếc áo choàng tắm của A Cẩm hứng, hái được một vốc đầy. Hai mẹ con vừa đi vừa hái, vừa ăn ngon lành.
Hứa Minh Nguyệt nếm thử quả câu kỷ hoang dã thời này mới biết vị của nó khác hẳn với loại trồng nhân tạo mà cô từng mua trên mạng ở kiếp trước.
Loại trồng nhân tạo có vị ngọt, hơi giống cà chua bi nhưng không ngọt bằng. Còn loại hoang dã này lại có vị hơi đắng, đắng rồi mới ngọt hậu (hồi cam).
Ban đầu A Cẩm chê vị đắng không muốn ăn, nhưng thấy mẹ ăn ngon lành, cô bé cũng bắt chước ăn theo rồi thấy thích.
Thấy "chú râu xồm" (kỹ thuật viên) đi chậm chạp phía sau, A Cẩm gọi với lại: "Chú râu xồm ơi, chú ăn không ạ?" Cô bé xòe bàn tay đầy những quả đỏ mọng ra mời.
Mạnh Phúc Sinh dừng lại, nhìn cô bé. Khóe miệng ẩn sau bộ râu rậm rạp khẽ nhếch lên thành một nụ cười, anh ngồi xổm xuống, đưa tay ra.
A Cẩm bốc ngay một nắm to đặt vào tay anh, vì mạnh tay quá nên làm nát mấy quả mọng nước.
"Cảm ơn cháu." Anh nói, trong mắt ánh lên ý cười.
A Cẩm hãnh diện đáp: "Không có chi ạ!"
Mọi người đều đi về phía nhà ăn tập thể ở trung tâm thôn, còn mẹ con Hứa Minh Nguyệt rẽ về hướng núi hoang, đường gần hơn nhiều.
Dạo trước kênh lớn thông nước, rất nhiều cá lớn theo dòng vào kênh. Tuy bị dân làng bắt bớt một phần, nhưng đại đội trưởng Hứa rất tinh ranh, ông cho đặt một cái lờ tre hình vuông cực lớn chắn ngay cửa cống dẫn nước từ sông Trúc T.ử vào kênh. Trừ những con cá nhỏ lọt qua khe, còn lại cá to bằng cổ tay, thậm chí bằng bắp đùi đều chui hết vào lờ, thuộc về nhà ăn thôn Hứa gia.
Con kênh này rõ ràng là công sức đào của cả đại đội Lâm Hà, nhưng cá bắt được chỉ chia cho thôn Giang gia vài con lấy lệ. Đại đội trưởng Hứa khư khư giữ của, nhất quyết bảo đó là cá của thôn Hứa gia, không chia cho thôn Giang gia.
Thời gian này vừa gặt vừa cấy (song thưởng), lại phải đào kênh, đắp đê, đại đội trưởng sợ dân làng làm việc quá sức không chịu nổi nên cho lọc thịt cá nấu cháo bồi bổ. Tuy cháo loãng chẳng có mấy váng mỡ nhưng dẫu sao cũng có tí chất tanh (thức ăn mặn), dân làng tranh nhau đến nhà ăn, ai cũng muốn múc được bát cháo có nhiều miếng cá.
Trước đây A Cẩm dị ứng cá rất nặng, chỉ dính tí nước cá là nổi mề đay khắp người. Đi học mẫu giáo, tiểu học hay sang nhà bạn chơi đều bị dính mấy lần, riết thành ra con bé rất sợ cá. Dù Hứa Minh Nguyệt không chắc cơ thể hiện tại của con có còn dị ứng hay không, nhưng cô cũng không dám mạo hiểm.
Hơn nữa cháo cá ở nhà ăn tập thể nấu rất tanh, A Cẩm ngửi thấy là buồn nôn, không nuốt nổi. Hứa Minh Nguyệt cũng không dám ép con ăn, sợ dị ứng nặng gây khó thở. Thời gian này cô không dám đưa con đến nhà ăn, sợ dính phải nước cá lại khổ, nên hai mẹ con về núi hoang tự nấu ăn riêng.
Hứa Minh Nguyệt không đến nhà ăn, nhờ Hứa Phượng Liên lấy phần cơm mang về.
Triệu Hồng Liên sau khi về làm dâu thôn Hứa gia đã được thím Hai (vợ đại đội trưởng) sắp xếp vào làm ở nhà ăn. Hiện tại thím Hai là quản lý, Triệu Hồng Liên là đầu bếp, việc lấy cơm cho Hứa Minh Nguyệt quá dễ dàng.
Nhiều người trong thôn thấy Hứa Minh Nguyệt không đến nhà ăn cũng không lấy làm lạ, cho rằng cô ngại xuất hiện trước đám đông. Họ khen cô "biết điều", phụ nữ bị chồng bỏ hay lượn lờ trước mặt đàn ông con trai trong thôn cũng không hay ho gì, ảnh hưởng đến các cô gái chưa chồng. Sự kín tiếng của cô ngược lại khiến mọi người càng thêm tôn trọng.
Triệu Hồng Liên theo cô ruột vào làm đầu bếp nhà ăn, nhanh ch.óng hòa nhập với cuộc sống ở thôn Hứa gia.
Lợi ích thấy rõ nhất khi Triệu Hồng Liên làm đầu bếp là mỗi khi cô múc cháo cho người nhà họ Hứa, dù bát cháo vẫn đầy như mọi người nhưng lượng cá bên trong bao giờ cũng nhiều hơn hẳn. Hứa Phượng Liên và Hứa Phượng Phát sướng rơn, luôn miệng gọi "chị dâu", thân thiết vô cùng, khiến Triệu Hồng Liên cũng vui ra mặt, càng gắn bó với nhà chồng.
Việc đầu tiên Hứa Minh Nguyệt và A Cẩm làm khi về đến nhà là đốt hương muỗi.
Hương muỗi này do cô tự chế từ ngải cứu và cây liễu cay (nghể nước) mọc đầy đồng.
Ban đầu cô thấy cái lều trại mang theo chẳng có tác dụng gì, nhưng đến mùa hè này thì nó đúng là cứu tinh.
Sống ở núi hoang cái gì cũng tốt, chỉ có một điểm trừ duy nhất: muỗi nhiều kinh khủng khiếp!
Sau lưng là suối, trước mặt là mương nước ruộng, bên cạnh đường cái là mương thoát lũ!
Ba mặt đều là nước! Toàn là ổ muỗi!
Mùa hè muỗi nhiều đến mức có thể "khiêng" người đi được!
Khổ nỗi A Cẩm lại thuộc tạng người hút muỗi, chỉ sơ ý chút là tay chân đầy nốt muỗi đốt, toàn là loại muỗi hoa độc.
Năm nay hạn hán, núi hoang oi bức, tối ngủ không mở cửa sổ thì nóng c.h.ế.t, mở ra thì muỗi khiêng đi.
Đóng cửa đốt hương muỗi ngủ cũng không xong, mùi liễu cay trong hương vừa hắc vừa sặc, làm A Cẩm chảy nước mắt, ho sù sụ.
A Cẩm lại không chịu được nóng, nóng là nổi rôm sảy ngứa ngáy. Không điều hòa, không quạt điện, đóng cửa ngủ nóng đến mức con bé lăn lộn khắp giường tìm chỗ mát. Hứa Minh Nguyệt lấy cái quạt tích điện cầm tay trong hành lý ra quạt cho con (loại sạc đầy dùng được khoảng 2 tiếng), nhưng gió yếu quá, thổi thẳng vào mặt mà đầu con bé vẫn ướt đẫm mồ hôi.
Hứa Minh Nguyệt phải thức quạt tay cho con nửa đêm.
Mỗi lúc như thế, cô lại tự cảm thán: Mình yêu A Cẩm đúng là "chân ái", cả đời này chưa từng quạt cho ai như thế, kể cả bố mẹ ruột.
Bản thân cô cũng nóng không chịu nổi!
Bị A Cẩm hành cho tơi tả, Hứa Minh Nguyệt hết cách, đành tháo lưới chống muỗi của lều trại ra, bịt kín tất cả cửa sổ trong nhà. Cô còn may thêm hai tấm rèm lưới cho hai cửa buồng và cửa chính. Ban ngày cô đốt hương muỗi ở khắp các góc sân, đặc biệt là khu nhà vệ sinh. Nhờ thế A Cẩm mới đỡ khổ sở, không bị muỗi đốt sưng người, khóc lóc kêu ngứa nữa.
Làm được hương muỗi, Hứa Minh Nguyệt mang biếu nhà Hứa Phượng Đài, nhà đại đội trưởng và nhà mấy anh em họ rất nhiều.
Đại đội trưởng không ngờ Hứa Minh Nguyệt còn biết làm cả hương muỗi, được biếu hương muỗi dùng, ông càng quý cô hơn.
Nguyên liệu làm hương muỗi ở nông thôn đầy rẫy, ở Cung Tiêu Xã cũng rẻ bèo, vấn đề là muốn mua hương muỗi phải có phiếu, mà tự làm thì dân không biết cách.
Biết tin Hứa Minh Nguyệt làm được hương muỗi, nhiều người trong thôn muốn đến xin. Họ cũng biết điều không xin không, thường mang ít củ ấu, đài sen hái dưới sông đến cho A Cẩm ăn vặt, tuy không đáng giá nhưng là tấm lòng.
Hứa Minh Nguyệt không từ chối, ai mở miệng xin với thái độ t.ử tế cô đều cho một ít.
Ban đầu chuyện này chỉ lan truyền trong chi ba (nhà đại đội trưởng), không biết thế nào mà cả thôn đều biết. Ai cũng biết Hứa Minh Nguyệt có hương muỗi và chịu đổi đồ, thế là kéo nhau đến đổi.
Nạn muỗi không chỉ hành hạ nhà Hứa Minh Nguyệt mà cả đại đội Lâm Hà đều khổ sở. Cán bộ như bí thư, đại đội trưởng có lương, có phiếu mua đồ ở Cung Tiêu Xã còn đỡ, chứ dân thường thì chỉ biết lấy tay đập muỗi đen đét!
Tối nóng quá không ngủ được thì làm sao? Thì bê chõng tre ra sân ngủ, sáng dậy người đầy nốt muỗi đốt!
Số hương muỗi Hứa Minh Nguyệt làm vốn chỉ đủ cho nhà cô, nhà Hứa Phượng Đài và nhà đại đội trưởng dùng một mùa hè. Dù cô có làm dư ra chút ít cũng không ngờ nhiều người đến xin thế. Khi cô bảo hết hương rồi, phải làm mẻ mới, người trong thôn hận không thể đi làm thay cô để cô có thời gian ở nhà làm hương muỗi.
Khổ nỗi công việc ghi công điểm của cô họ không làm thay được.
Thế là Hứa Minh Nguyệt đi làm muộn về sớm một chút cũng chẳng ai ý kiến gì, ai cũng muốn cô có thêm thời gian làm hương muỗi.
Những nhà tiếc củ ấu, đài sen không muốn mang đi đổi thì hỏi Hứa Minh Nguyệt cần gì khác.
Hứa Minh Nguyệt nhớ đến chuyện đầu xuân không mưa, sợ trồng cây gai (bụi gai) c.h.ế.t khô nên vẫn chưa trồng hàng rào gai và cây câu kỷ quanh tường. Cô bảo: "Lấy bụi gai, kim ngân hoa, tường vi, tầm xuân trên núi về đổi cũng được. Tường rào nhà tôi chưa trồng gai bảo vệ đâu! Ai có cây đào, cây mận, cây hồng, cây hạt dẻ con tôi cũng lấy!"
Mấy thứ này mọc đầy bờ ruộng, trên núi, chẳng tốn tiền mua, vác cái xẻng đi đào là có.
Chẳng mấy chốc, trước cửa nhà Hứa Minh Nguyệt chất đầy các loại bụi gai. Có người nhanh nhẹn còn giúp cô trồng luôn bụi gai bên ngoài tường rào.
Giờ mương nước đầy ắp, không lo cây c.h.ế.t khát, trồng xong múc nước dưới mương tưới lên là xong.
Rất nhanh, bên ngoài tường rào nhà cô đã được phủ kín bụi gai. Vì người ta mang đến quá nhiều, vốn Hứa Minh Nguyệt chỉ định trồng một vòng, kết quả trồng được tận hai ba vòng dày đặc. Giờ kẻ nào muốn trèo tường vào nhà cô thì đúng là nhiệm vụ bất khả thi!
Không thể xuyên qua được, tuyệt đối không thể!
Chuyện này không biết sao lại lọt đến tai người thôn Giang gia. Thôn Giang gia cũng thiếu hương muỗi mà!
Bí thư đại đội nghe tin liền đến tìm Hứa Minh Nguyệt: "Đơn xin vào Đảng của cô tôi nộp lên rồi, chắc một thời gian nữa là có kết quả thôi. Thường thì phải thử thách nửa năm đến hai năm, cô đừng sốt ruột, kiểu gì cũng được." Cho cô uống viên t.h.u.ố.c an thần xong, ông mới vào đề: "Nghe nói cô biết làm hương muỗi? Còn nhiều không? Có bao nhiêu lấy bấy nhiêu, người thôn tôi muốn đổi đồ lấy hương muỗi. Nghe bảo cô cần bụi gai à?"
Hứa Minh Nguyệt (đã thừa mứa bụi gai): ...
Nhưng người thôn Giang gia đâu cần biết cô thiếu hay thừa, họ mặc định là cô thiếu. Đến núi hoang, thấy vành đai phòng cháy và chống trộm bên ngoài tường rào nhà cô đã trồng kín ba tầng gai, họ bèn lên núi đào những bụi gai to hơn nữa trồng tiếp ra phía ngoài. Đúng là trong ba tầng, ngoài ba tầng, trừ lối đi ở cổng chính, họ vây kín cái sân nhỏ trên núi hoang của cô như tường đồng vách sắt!
Cây đào, cây hồng, hạt dẻ, dâu tằm... mà cô muốn cũng được họ mang đến trồng đầy trong sân.
Nghe nói Hứa Minh Nguyệt cần cả dây "ớt nhỏ" (câu kỷ) mọc đầy bờ mương, họ đào về trồng dọc chân tường phía trong sân trước. Sân sau trồng đầy tường vi, tầm xuân.
Cây tầm xuân toàn là cây lâu năm đào trên núi về, dây dài ít nhất 3 mét, vắt vẻo trên tường rào, gai chi chít. Kẻ nào không có mắt mà mò vào, đảm bảo bị gai đ.â.m cho hoài nghi nhân sinh.
Trong chốc lát, sân nhà Hứa Minh Nguyệt bừng bừng sức sống, cấp độ an ninh tăng vọt.
Nhiều người đến trồng gai giúp nhìn "trận địa" gai góc trùng điệp quanh nhà cô cũng phải cảm thán: "Thế này thì bố bảo thằng nào dám mò lên núi hoang đêm hôm..."
"Lợn rừng cũng chẳng dám húc vào, húc vào thì bay cả mảng da!"
"Ai mà chui qua nổi cái bụi rậm này?"
"Đừng nói trèo tường, chỉ cần lên được đến đây mà toàn thây trở ra là tôi phục sát đất rồi!" Họ nhìn vành đai gai rộng 20-30 mét bao quanh tường rào mà lắc đầu lè lưỡi.
Ngay cả kỹ thuật viên Mạnh Phúc Sinh, người đến đại đội Lâm Hà mà chẳng mấy khi mở miệng nói chuyện, cũng xách hai gốc kim ngân hoa, đi khập khiễng lên núi hoang đổi hương muỗi với Hứa Minh Nguyệt.
Khí tràng lạnh lùng u ám đến mấy cũng không chống lại được sự tấn công của muỗi đại đội Lâm Hà.
Người khác đổi hương muỗi với Hứa Minh Nguyệt bằng bụi gai hoặc cây giống đào trên núi. Mạnh Phúc Sinh do chân bị thương chưa được chữa trị t.ử tế, đi lại khó khăn, đường núi lại hiểm trở. Hàng ngày anh ta theo dân làng ra đồng chỉ đạo trồng trọt, đi đường bằng còn vất vả, nói gì đến chuyện leo núi đào cây.
Núi ở thôn Hứa gia vẫn còn rất hoang sơ, hoàn toàn không phải nơi anh ta có thể leo lên với tình trạng hiện tại. Kể cả chân cẳng lành lặn, bụi gai hoang dã ở đây cũng không phải thứ mà người xứ khác như anh ta dễ dàng đối phó.
Gai của bụi gai hoang dã dài hơn bất cứ loại gai nào anh ta từng thấy, vừa cứng vừa sắc, có thể đ.â.m thủng da lợn rừng, lại mọc thành từng bụi lớn chằng chịt, người địa phương muốn đào cũng chẳng dễ dàng gì.
