Cuốn Vương Ở Thập Niên 60[ Mang Theo Một Xe Vật Tư Nuôi Gia Đình Ở Thập Niên 60] - Chương 74:-------

Cập nhật lúc: 26/12/2025 05:11

Củ sen, củ ấu và khiếm thực vốn là những loài thực vật thủy sinh có tốc độ sinh sôi nảy nở cực nhanh. Năm nay mực nước giảm, những vùng nước trước kia quá sâu khiến chúng không mọc được thì nay đã trơ đáy, buộc đám thực vật này phải lan tràn ra những vùng nước sâu hơn giữa sông để tìm đường sống.

Tình thế cấp bách, ngay trong ngày hôm đó, Đại đội trưởng Hứa đã huy động toàn bộ trẻ con trong Đại đội Lâm Hà, dùng thuyền nhỏ chở chúng đến Nông trường Cửa sông Bồ để hái hạt sen.

Khác với bãi sông ở Lâm Hà nơi đã bị đám trẻ vặt trụi hết đợt này đến đợt khác, khu vực Cửa sông Bồ này trước không thôn sau không quán, hoàn toàn ở trạng thái hoang sơ, hạt sen già chưa từng có ai hái. Đám trẻ con này, ngoại trừ lũ nhóc đến từ ba thôn Thi, Hồ, Vạn là không biết chèo thuyền, còn lại đều là những tay bơi lội và chèo thuyền cự phách. Đứa chống sào, đứa cầm mái chèo quạt nước thoăn thoắt, chẳng mấy chốc đã hái đầy ắp thuyền những đài sen già.

Hạt sen tầm này đã đủ độ già, nhưng chưa khô hẳn, là loại hạt sen già tươi mới nhất, thích hợp nhất để nảy mầm và phát triển thành củ sen. Loại hạt sen đã khô khốc đến mức mầm bên trong mất đi sức sống thì thực ra lại khó nảy mầm hơn.

Trong số đó vẫn còn những đài sen có thể bóc ra ăn được. Lũ trẻ vừa hái vừa ăn, hoặc bóc đài sen nhét đầy túi áo mang về. Trẻ con ba thôn Thi, Hồ, Vạn nhát nước, không dám ra khu nước sâu nên chỉ loanh quanh ở mép bờ, nơi bãi sông đã nứt nẻ để hái.

Hạt sen hái về chất đầy thuyền này qua thuyền khác. Những cô bé lớn hơn một chút chịu trách nhiệm tách hạt. Những hạt già cứng c.ắ.n không nổi, mất đi độ tươi ngon để ăn thì được giữ lại. Các cô bé dùng kéo cắt nhẹ lớp vỏ cứng, rồi chèo thuyền ra vùng nước sâu hơn của sông Trúc T.ử để gieo rắc.

Chiến dịch hái hạt sen vừa xong chưa đầy ba ngày, nhóm dân chạy nạn đầu tiên đã được xe tải lớn chở đến trấn Thủy Phụ. Từ trấn Thủy Phụ, họ được đưa xuống bến tàu... À không, gọi là bến tàu cũng không đúng. Bến tàu cũ do mực nước xuống thấp đã không thể neo đậu thuyền bè nữa. Thuyền hiện tại đều cập vào một gò đất cách đó hơn 500 mét. Nơi này vốn là khu vực đào sâu để nuôi cá, nay bất đắc dĩ thành bến tàu mới.

Từng chiếc thuyền máy chạy dầu diesel chở đám dân chạy nạn đến mặt sông gần Nông trường Cửa sông Bồ.

Trên thuyền, vô số con người đói lả, bụng réo ầm ĩ, tưởng chừng như giây tiếp theo có thể ngã gục, khi nhìn thấy bãi sông mênh m.ô.n.g bát ngát liền bừng lên tia hy vọng sống. Nếu không phải vì nhiều người không biết bơi, có lẽ họ đã lập tức nhảy xuống sông để mò củ sen lên mà gặm.

Tình hình thực tế cũng chẳng khác là bao. Những người này đói đến mức không còn sức để nói chuyện. Khi Đại đội trưởng Hứa cho dân quân dùng thuyền nhỏ đưa họ từ thuyền lớn vào bãi sông, chân vừa chạm đến vùng bùn nông, họ đã không kiềm chế nổi. Chẳng cần dụng cụ, họ dùng cả chân tay, vừa dẫm vừa moi, rất nhanh đã lôi lên được những đốt củ sen đứt đoạn. Họ chỉ kịp khua khoắng qua loa dưới nước sông cho bớt bùn đất, rồi cứ thế ngấu nghiến ăn sống.

Sau này khi nhớ lại đoạn ký ức đó, họ đều kể với giọng điệu vừa hãi hùng vừa buồn cười: "Lúc đó tôi ăn một hơi ít nhất phải năm cân! Đói đến mức chân tay rủn ra, cứ thấy cái gì ăn được là nhét vào mồm!"

"Có người còn không chờ kịp, ngó sen non cũng bị gặm sạch, ăn xong mới có chút sức lực để tiếp tục đào củ."

Đúng vậy, là đào bằng tay! Đào thủ công!

Vì phong trào "Đại luyện thép", trừ những nông cụ thiết yếu như xẻng, cày, bừa dùng cho sản xuất hàng ngày, còn lại sắt thép trong Đại đội Lâm Hà đều đã bị đem đi nung chảy hết. Họ không có xẻng thừa. Số xẻng ít ỏi còn lại phải tranh thủ đào khu nước sâu để trữ nước và nuôi cá trước khi sông cạn hẳn.

Thế nên, cả cái Nông trường Cửa sông Bồ rộng lớn này không có lấy một cái xẻng, tất cả đều dựa vào sức người khai phá thủ công.

Đại đội trưởng Hứa bí quá phải tìm thợ mộc trong thôn đặt làm gấp một số cái thuổng gỗ, nhưng làm thuổng gỗ cũng tốn thời gian, một chốc một lát không thể đáp ứng đủ cho lượng người đông đảo như vậy.

Cũng may là bùn sông mềm nhũn. Chỉ cần gạt bỏ lớp bùn khô nứt trên bề mặt, bên dưới toàn là bùn đất mềm mại, ấm áp.

Bãi sông không chỉ có củ sen, mà còn có vô số trai sông, trai mỏ vịt, trai mỏ nhọn...

Rất nhanh, đám dân chạy nạn đã tìm được công cụ đào bùn tuyệt vời: Vỏ trai sông cỡ lớn!

Những người dân chạy nạn từ vùng phía Bắc tỉnh này đa số chưa từng ăn thịt trai. Khi cạy con trai sông khổng lồ ra và thấy bên trong có thịt, họ mừng như bắt được vàng. Họ chẳng quan tâm thịt trai dai hay tanh, cứ để nguyên cả vỏ, kiếm ít cỏ khô ven sông nhóm lửa nướng ngay tại trận. Trai vừa nướng xèo xèo sủi bọt, chưa biết chín hẳn chưa, họ đã nuốt chửng, ăn cho no bụng!

Người địa phương vốn chê thứ này vừa dai vừa tanh nên không ăn. Nào ngờ đám dân chạy nạn lại vô tình tìm ra cách ăn ngon nhất: Không được nướng quá lâu. Nướng lâu thịt trai sẽ dai như cao su, chỉ cần vừa chín tới là ăn ngay, thịt lại rất tươi và giòn.

Thế là, các loài trai ốc trên bãi sông cũng nhanh ch.óng gặp họa sát thân!

Các đại đội lân cận như Kiến Thiết, Thạch Giản, Hòa Bình vốn dĩ chưa cấp bách đến thế, nhưng kẹt ở giữa lại có một Đại đội Lâm Hà đang làm việc như bị ma đuổi, khiến họ cũng phát hoảng theo. Nhất là khi thấy từng thuyền dân chạy nạn được chở đến Cửa sông Bồ.

Họ vốn là dân sông nước, làm sao không thấy những con thuyền lớn tấp nập trên mặt sông?

Để giảm bớt gánh nặng thiên tai cho các khu vực khác, sau khi nhân lực ở Nông trường Cửa sông Bồ đã bão hòa và Đại đội trưởng Hứa tuyên bố không nhận thêm người, cấp trên dường như vớ được chiếc phao cứu sinh, vẫn tiếp tục chở từng đợt dân chạy nạn đến.

Số người thừa ra này được thả xuống các bãi sông vô chủ khác, vì sông Trúc T.ử rất rộng, bãi bồi hoang vắng còn nhiều.

Nhưng vì Cửa sông Bồ nằm ngay vị trí giáp ranh giữa Đại đội Hòa Bình và thành phố kế bên, nên đám dân chạy nạn không biết đường xá, sau khi thấy Cửa sông Bồ đã chật kín người, họ bắt đầu tỏa sang hai bên để tìm đường sống.

Phần lớn chạy sang phía thành phố kế bên, nhưng một bộ phận nhỏ, theo bản năng sinh tồn, lại chạy về phía bãi sông gần nhất.

Đại đội Hòa Bình tuy cũng dựa vào bãi sông để sống, đào củ sen ăn thay cơm nên chưa đến mức c.h.ế.t đói, nhưng khi thấy người lạ tràn vào cướp miếng ăn, họ không thể ngồi yên. Dân làng vác cuốc, vác đòn gánh ra bảo vệ bãi sông của mình, xua đuổi đám dân chạy nạn.

Nhưng đám người đói khát cùng đường đâu còn quan tâm gì nữa. Nhìn thấy củ sen dưới bãi sông, phản xạ đầu tiên của họ là: Ăn!

Đại đội Hòa Bình và Kiến Thiết mùa hè vừa rồi đã hái lá sen ăn quá nhiều làm ảnh hưởng đến sự phát triển của củ, sản lượng năm nay vốn đã thấp hơn mọi năm. Giờ lại có người ngoài đến tranh cướp, làm sao họ chịu được?

Việc xua đuổi nhanh ch.óng biến thành ẩu đả!

Biết làm sao được, dân chạy nạn đang ở bờ vực cái c.h.ế.t, dân địa phương cũng cần ăn để sống. Đây chính là "Cuộc chiến bảo vệ củ sen" một mất một còn.

Đánh nhau vài trận kinh hoàng mới khiến nhóm Bí thư Chu chú ý. Cuối cùng, Bí thư Chu phải điều vài tiểu đội dân quân đến Nông trường Cửa sông Bồ hỗ trợ Đại đội trưởng Hứa duy trì trật tự. Nếu chỉ dựa vào 50 người của ông Hứa thì không thể kiểm soát nổi dòng người di cư khổng lồ này.

Người ta nói "làm chính trị tâm địa đều đen" cũng chẳng sai. Đại đội trưởng Hứa vốn là người Đại đội Lâm Hà, ông tuyệt đối không để đám dân chạy nạn này tràn vào phá hoại đại đội mình. Vậy phải làm sao? Tất cả đều bị lùa sang bãi sông thuộc địa phận thành phố kế bên.

Đến khi lãnh đạo thành phố kế bên phát hiện ra trên bãi sông thuộc quyền quản lý của mình bỗng xuất hiện một lượng lớn dân chạy nạn nói giọng Bắc tỉnh, họ mới vỡ lẽ ra rằng đám lãnh đạo huyện Ngô Thành và Bí thư Chu đã làm cái trò thất đức gì!

Lãnh đạo thành phố kế bên tức giận đến mức "nổi trận lôi đình". Một vị lãnh đạo đã thốt lên: "Bọn người Ngô Thành đúng là thất đức đến bốc khói!"

Lúc đầu họ còn chưa biết đám người này từ Công xã Thủy Phụ tràn sang, cứ tưởng huyện Ngô Thành lùa dân chạy nạn của chính huyện đó sang đất của họ. Chờ khi họ hiểu rõ tình hình thì sự đã rồi.

Chủ nhiệm Tôn báo cáo vượt cấp lên tỉnh thông qua lãnh đạo huyện Ngô Thành. Tỉnh đang đau đầu vì nạn đói, thấy có cơ hội cho dân sống sót là duyệt ngay việc di dân, tất nhiên chẳng thèm thông báo cho lãnh đạo thành phố kế bên một tiếng.

Lãnh đạo thành phố kế bên kiện lên trên, kết quả cấp trên lại càng điều thêm nhiều dân chạy nạn đến vùng bãi sông không người của họ. Trong chốc lát, dọc bờ sông Trúc T.ử đặc nghẹt người là người.

Dân chạy nạn đến, tất yếu kéo theo sự hỗn loạn về trật tự trị an.

Những người an phận thì chỉ đào củ sen ăn cho no. Nhưng khi đã có chút sức lực, họ bắt đầu mò vào các thôn xóm có người ở để tìm kiếm cuộc sống tốt hơn.

Những người phụ nữ, góa phụ, hoặc những người mẹ dắt theo con cái vì không sống nổi ở quê nhà mà đi ăn xin, tuy đầu tóc rối bù như tổ quạ, nhưng dù sao vẫn là phụ nữ. Họ nhanh ch.óng tìm được những người đàn ông độc thân, những gã ế vợ lâu năm ở địa phương, chắp vá thành một gia đình.

Rất nhiều đàn ông địa phương không lấy được vợ vì nghèo, giờ đây sẵn sàng đón nhận những người phụ nữ tha hương này. Năm được mùa muốn lấy vợ còn phải sính lễ, quần áo mới, huống chi năm mất mùa, không có năm cân bột củ sen thì đừng hòng rước được ai về. Giờ thì tốt rồi, tự nhiên có cả vợ lẫn con.

Những đứa trẻ đi theo mẹ thường là bé trai tầm tám, chín, mười tuổi. Bé gái ít khi được mang theo, nếu cùng đường quá thì đã bán làm con dâu nuôi từ bé cho nhà người ta để có đường sống rồi.

Đám đàn ông ế vợ cũng chẳng nề hà chuyện con riêng. Người ta đã phải tha hương cầu thực, nghĩa là ở quê nhà đã không còn chồng, con cái cũng chẳng còn đường về. Đứa trẻ đi xa thế này, sau này có tìm lại được quê quán hay không cũng khó nói. Cứ nuôi nấng t.ử tế thì khác gì con ruột đâu?

Trong đám dân chạy nạn này rất ít đàn ông đi một mình. Phụ nữ vào thôn thì còn được chấp nhận, chứ đàn ông lạ mặt mà mò vào thì đúng là tai họa.

Không thôn nào hoan nghênh đàn ông chạy nạn. Hễ phát hiện ra là dân làng vác cuốc, vác đòn gánh xua đuổi ngay.

Người địa phương tuy bị trưng thu lương thực gần hết, nhưng "dựa núi ăn núi, dựa sông ăn sông", lại đang vào mùa thu hoạch, dù hạt dẻ trên núi năm nay không mẩy bằng mọi năm, nhưng họ vẫn còn cái ăn cầm hơi, sức lực vẫn khỏe hơn đám dân chạy nạn đói da bọc xương nhiều.

Người thành phố kế bên cũng muốn lùa đám dân này ngược về phía Nông trường Cửa sông Bồ. Nhưng Nông trường của Đại đội trưởng Hứa như một bức tường thành thiên nhiên, chặn đứng tất cả những kẻ muốn quay lại phía Nam, dồn tất cả sang đất của thành phố kế bên.

Dù có một số ít lọt qua Cửa sông Bồ đến Đại đội Hòa Bình hay Kiến Thiết, nhưng số người vào được Đại đội Lâm Hà là cực ít.

Ban đầu lãnh đạo thành phố kế bên còn thắc mắc sao Công xã Thủy Phụ lại tranh giành cái mảnh đất "chó ăn đá, gà ăn sỏi" như Cửa sông Bồ. Mãi đến khi nhìn thấy cái cổng chào bằng tre dựng sừng sững ở biên giới, bên trên viết "Nông trường Cải tạo Lao động Cửa sông Bồ - Công xã Thủy Phụ", và nhìn thấy bãi sông tấp nập người khai hoang, họ mới hiểu được mưu tính sâu xa của đám người Thủy Phụ và Ngô Thành.

Nhưng lúc này muốn dòm ngó mảnh đất màu mỡ có thể biến thành ruộng lúa ấy thì đã muộn.

Cũng may trong địa phận của họ cũng có nhiều bãi bồi lộ ra như vậy. Tuy không rộng lớn và liền mạch như Cửa sông Bồ, nhưng nếu học theo Thủy Phụ mà cải tạo thì cũng trồng được lương thực.

Điều duy nhất thua thiệt là họ không có địa thế phòng thủ tự nhiên như cái "nút cổ chai" ở Cửa sông Bồ. Hiện tại chỗ đó đã được cấp trên giao cho Công xã Thủy Phụ đắp đê. Một khi con đê hoàn thành, nơi này sẽ trở thành một kho lúa khổng lồ của riêng Thủy Phụ.

MonkeyD

Email: [email protected]

Liên hệ hỗ trợ: https://www.fb.com/monkeyd.vn

DMCAPROTECTED

Mọi thông tin và hình ảnh trên website đều được bên thứ ba đăng tải, MonkeyD miễn trừ mọi trách nhiệm liên quan đến các nội dung trên website này. Nếu làm ảnh hưởng đến cá nhân hay tổ chức nào, khi được yêu cầu, chúng tôi sẽ xem xét và gỡ bỏ ngay lập tức. Các vấn đề liên quan đến bản quyền hoặc thắc mắc khác, vui lòng liên hệ fanpage: MonkeyD.