Cuốn Vương Ở Thập Niên 60[ Mang Theo Một Xe Vật Tư Nuôi Gia Đình Ở Thập Niên 60] - Chương 83
Cập nhật lúc: 27/12/2025 07:00
May mắn là Hứa Minh Nguyệt đã cho đào giếng trên núi hoang, nên cô không cần phải chen chúc tranh giành nước uống với người thôn Giang Gia ở cái giếng cổ đầu thôn.
Giếng nước nhà cô trên núi hoang lại là nơi gần giếng cổ thôn Giang Gia nhất. Nếu đi từ sau núi theo con đường mòn Vương Căn Sinh (chồng cũ của cô) từng đi, rồi băng qua con suối đã cạn khô và bờ ruộng của thôn Giang Gia, thì đường đi tắt đến giếng cổ còn ngắn hơn nhiều.
Hứa Minh Nguyệt để ý thấy hàng người xếp hàng gánh nước ở giếng cổ thôn Giang Gia mỗi sáng ngày một dài thêm. Tiếng c.h.ử.i bới, đ.á.n.h lộn thường xuyên xảy ra, nguyên nhân cũng chỉ vì người xếp trước múc quá nhiều, khiến người xếp sau chẳng còn nước mà múc. Nhưng c.h.ử.i bới cũng vô dụng, nước chỉ có thế, người khác múc mất thì mình nhịn.
Không có nước uống thì c.h.ế.t khát, cực chẳng đã người ta đành phải gánh nước ở mương dẫn nước (lũ lụt mương) về dùng.
Nước mương thực ra cũng chẳng sạch sẽ gì. Hứa Minh Nguyệt không rõ tình trạng mương thôn Giang Gia hiện tại, nhưng ký ức hai ba mươi năm sau thì cô quá rõ. Trường tiểu học duy nhất của Đại đội Lâm Hà nằm ở thôn Giang Gia, ngày bé đi học cô phải đi qua con mương này. Dưới mương đủ thứ rác rưởi: chai t.h.u.ố.c trừ sâu, xác ch.ó, chuột c.h.ế.t, mảnh chai... Thậm chí dân xóm dưới của thôn Giang Gia còn mang cả bô vệ sinh ra mương cọ rửa.
Trong mắt người thôn Giang Gia, nước mương chỉ để tưới ruộng chứ không phải nước sinh hoạt như ao hồ trong làng dùng để giặt giũ, rửa rau. Thế nên những thứ xú uế không thể xả xuống ao hồ thì họ tống hết ra mương. Thời đại này tuy chưa có nhiều rác thải nhựa hay chai lọ thủy tinh, nhưng chuyện cọ rửa bô xí ở mương chắc chắn là có.
Thế mà giờ đây, thứ nước mương ấy lại trở thành nguồn nước uống chính của dân thôn Giang Gia. Cũng may là nước mới được dẫn từ sông Trúc T.ử vào hồi đầu năm, chứ nếu là nước tù đọng thì dù có đ.á.n.h phèn chua cũng chẳng dám nuốt.
Hứa Minh Nguyệt không lo lắng cho nguồn nước mương của thôn Hứa Gia, vì địa thế thôn Hứa Gia cao hơn thôn Giang Gia, nằm ở thượng nguồn. Nước mương thôn Hứa Gia chỉ chảy xuống thôn Giang Gia chứ không chảy ngược lại. Địa hình tự nhiên đã ngăn cách sự ô nhiễm từ phía dưới.
Hiện tại, nước mương thôn Giang Gia không chỉ để uống mà còn phải dùng để tưới cho cánh đồng lúa mì vụ đông dưới chân núi.
Đến tháng Tư, lúa mì vụ đông dưới chân núi đã trổ bông xanh mướt. Người già, trẻ con trong Đại đội Lâm Hà đều được huy động dùng xe cút kít chở nước tưới cho ruộng lúa sắp chín, đồng thời làm cỏ và phun t.h.u.ố.c trừ sâu tự chế của Kỹ thuật viên Mạnh.
Dù dân làng đã dốc sức chăm sóc, nhưng do hai mùa đông liên tiếp không có tuyết rơi để diệt trứng sâu bệnh trong đất, cộng với hạn hán, nên lúa mì vụ xuân năm nay phát triển cũng không được tốt lắm.
Hạn hán vẫn ảnh hưởng nặng nề đến vụ thu hoạch của ba thôn Thi, Hồ, Vạn. Dù họ đã lo xa đào hồ chứa nước dưới chân núi, nhưng thời điểm trữ nước đã quá muộn, chỉ hứng được chút nước suối trên núi chảy xuống. Số nước ít ỏi đó sau một năm tưới tiêu đã cạn trơ đáy, cùng lắm chỉ đủ cầm cự cho đợt gieo mạ vụ xuân. Sau khi cấy, lúa cần rất nhiều nước, nếu trời vẫn không mưa thì coi như mất trắng cả năm.
Ba thôn này nằm xa sông Trúc Tử, đường đi lại là đường núi dốc đứng. Đi tay không đã mệt, huống chi phải gánh nước hay đẩy xe nước lên dốc, đó là một cực hình. Tình cảnh này khiến các tiểu đội trưởng và dân làng ba thôn vô cùng lo lắng.
Nhưng biết làm sao được. Tục ngữ có câu: "Mùa đông lúa mì đắp ba tầng chăn (tuyết), sang năm gối lên bánh bao mà ngủ". Đằng này hai năm liền không tuyết, lại là mùa đông ấm, cây lúa mọc được đến giờ này đã là nỗ lực phi thường của cả Đại đội Lâm Hà.
Thời gian này, Đại đội trưởng Hứa hầu như túc trực ở Nông trường Cửa sông Bồ để chỉ đạo xây dựng.
Không xây dựng không được. Từ đầu xuân, dân chạy nạn từ thành phố kế bên và huyện Ngô Thành lục tục kéo đến. Nhiều người đói quá, vừa đến nơi đã nhổ ngó sen non, cắt lúa mạch xanh (thanh lúa mạch non) ăn sống.
Đó đều là lương thực cho tương lai, làm sao để đám dân chạy nạn phá hoại như thế được? Vì vậy, Đại đội trưởng Hứa ngày nào cũng phải dẫn dân quân đi tuần tra.
Hiện tại ông có trong tay 5 tiểu đội dân quân, một đội là người của ông, 4 đội kia mượn từ Bí thư Chu. (Nói là mượn nhưng thực chất cả đội của ông cũng chịu sự chi phối ngầm của Bí thư Chu).
Nhưng Đại đội trưởng Hứa vốn tính ngang tàng, s.ú.n.g đã vào tay thì ông cứ việc dùng. Ông xua hơn hai trăm dân quân cùng đám dân chạy nạn được giữ lại từ mùa đông năm ngoái đi tập luyện, đi canh gác. Tính cả số dân chạy nạn được giữ lại, quân số dưới trướng ông lên tới hơn 500 người.
Số củ sen giữ lại từ năm ngoái đã được làm thành bột, đủ để cầm hơi qua mùa đông. Giờ ông lại xua dân đi đào củ sen ở những bãi sông hoang vắng, đi săn thú trên núi, đào rễ sắn dây.
Những người ở lại tất nhiên không thể ăn no, mỗi ngày chỉ có hai bát bột củ sen cầm hơi, tất cả hy vọng dồn vào vụ lúa mì sắp thu hoạch. Vì thế, đám lúa mì này là sinh mệnh của cả Nông trường. Dân chạy nạn mới đến muốn ăn lúa non chẳng khác nào muốn lấy mạng họ. Ai nấy đều vác tre vót nhọn, cùng dân quân mang s.ú.n.g đi tuần tra ngày đêm.
Hầu như ngày nào cũng có đổ m.á.u!
Đại đội trưởng Hứa thi thoảng mới tạt về Lâm Hà để kiểm tra tình hình cày bừa vụ xuân.
Năm nay, vùng đất đồi của Lâm Hà không trồng lúa nước. Chờ thu hoạch xong lúa mì vụ đông, toàn bộ sẽ chuyển sang trồng khoai lang vụ xuân, xen canh đậu tương, ngô và lạc.
Vùng đồi không trồng lúa, nhưng vùng bãi bồi ven sông (Hà Vu) thì sẽ trồng lúa nước.
Ba thôn Thi, Hồ, Vạn vốn đang lo lắng về vụ xuân, sau khi nhận chỉ thị của Đại đội trưởng Hứa cũng quyết định đi theo con đường trồng khoai lang xuân.
Họ đã tận mắt chứng kiến vụ mùa bội thu của thôn Hứa Gia năm ngoái. Cùng trồng khoai lang nhưng sản lượng của thôn Hứa Gia cao hơn hẳn thôn Giang Gia và ba thôn còn lại. Mọi người đều cho rằng đó là nhờ kỹ thuật canh tác mới của Kỹ thuật viên Mạnh. Chẳng phải cuối năm ngoái, chỉ riêng đậu tương và lạc của thôn Hứa Gia đã thu nhiều hơn các thôn khác cả vạn cân sao?
Người thôn Giang Gia ngoài mặt không nói, nhưng trong lòng c.h.ử.i thầm mấy lão già bảo thủ không chịu nghe lời Kỹ thuật viên Mạnh. Năm nay vụ xuân chưa bắt đầu, họ đã tranh thủ lúc Đại đội trưởng Hứa vắng mặt để giữ Mạnh ở lại thôn mình hướng dẫn gieo trồng.
Đại đội trưởng Hứa cái gì cũng có thể qua loa, riêng chuyện trồng trọt thì cực kỳ nghiêm túc. Ông chỉ đạo dân Lâm Hà ủ phân và ươm giống khoai lang trước, chờ gặt xong lúa mì là làm đất trồng ngay để kịp thời vụ, đảm bảo năng suất.
Năm ngoái Kỹ thuật viên Mạnh đã nói bùn sông là phân bón tốt. Năm nay, lượng bùn đào lên từ khu nuôi cá nước sâu không dùng để đắp đê nữa mà được dân làng dùng xe cút kít chở về chân núi để cải tạo đất. Họ sợ đất trồng lúa mì xong sẽ bạc màu, không kịp hồi phục độ phì nhiêu cho vụ khoai lang tiếp theo.
Ngoài đất ở Lâm Hà, Đại đội trưởng Hứa còn định dùng hơn 6000 mẫu đất bãi bồi ở Nông trường Cửa sông Bồ để trồng khoai lang. Lý do chính là vấn đề tưới tiêu ở đó chưa được giải quyết.
Bãi bồi ở Lâm Hà chỉ hơn một ngàn mẫu, đào hai con mương chữ thập là tưới được hết. Nhưng bãi bồi Cửa sông Bồ quá rộng lớn, cần hệ thống mương máng chằng chịt, tốn rất nhiều nhân lực.
Hiện tại dân quân phải lo giữ gìn an ninh, nhân lực thực sự chỉ có gần 300 dân chạy nạn cũ. Dựa vào số người ít ỏi đó mà muốn hoàn thành hệ thống thủy lợi cho cả vùng bãi bồi mênh m.ô.n.g là chuyện hoang đường.
Có thể thuê thêm dân chạy nạn mới đến đào mương, nhưng thuê thì phải tốn lương thực. Lương thực hiện tại ở Nông trường còn chẳng đủ cho người nhà ăn, phải chờ lúa mì chín. Mà lúa mì chín rồi còn bị cấp trên điều đi bao nhiêu, còn lại bao nhiêu, có đủ thuê người không thì chưa biết.
Nhưng Đại đội trưởng Hứa chắc chắn một điều: Ông phải giữ lại đủ lương thực cho người của Nông trường, ai muốn lấy thêm một hạt ông cũng quyết không đồng ý!
Trong khi đó, ngoài Nông trường và Đại đội Lâm Hà, các đại đội khác đang đ.á.n.h nhau vỡ đầu chảy m.á.u để tranh nước. Thê t.h.ả.m nhất là Đại đội Thạch Giản.
Dòng suối lớn chảy qua thôn quanh năm không nghỉ giờ đã cạn trơ đáy sỏi, chỉ còn chút nước đọng đủ cho dân hai bên bờ dùng sinh hoạt, chứ đừng nói tưới tiêu.
Mọi năm Thạch Giản còn có thể lấy nước sông Trúc Tử. Nhưng đại đội này nằm ở cuối một nhánh sông, hạn hán hai năm khiến mực nước rút sâu. Đại đội Lâm Hà ở ven sông chính còn phải đào sâu vào lòng sông cả cây số mới có nước, thì cái nhánh sông cạn của Thạch Giản giờ đã trơ đáy, chỉ còn vũng nước nhỏ xíu, xe guồng nước cũng bất lực.
Muốn có nước, họ chỉ còn cách sang địa phận Đại đội Lâm Hà ở vùng nước sâu hơn để gánh. Chưa nói đến việc Lâm Hà có cho hay không, chỉ riêng cái uy danh của Đại đội trưởng Hứa Kim Hổ đã đủ làm người ta khiếp sợ. Ai chẳng biết ông ta giờ là Chủ nhiệm sản xuất Nông trường Cửa sông Bồ, trong tay có mấy trăm quân trang bị s.ú.n.g ống (tin đồn phóng đại). Mỗi lần ông ta về làng là kéo theo 50-60 người đeo s.ú.n.g dài sau lưng, oai phong lẫm liệt.
Đại đội Thạch Giản đến con d.a.o phay còn thiếu, lấy gì mà cương với Đại đội Lâm Hà?
Lại nói chuyện gánh nước. Từ Thạch Giản sang Lâm Hà đường chim bay chỉ mất hơn 10 phút đi bộ (khoảng 2,5km). Nhưng gánh nước thì khác. Chỉ riêng đi từ thôn xuống bờ sông đã mất 20 phút. Giờ mực nước rút, muốn lấy được nước phải đi xa hơn, một chuyến đi về mất ít nhất 40-50 phút. Lúc đi xuống dốc thì đỡ, lúc gánh nước nặng ngược dốc lên núi mới là cực hình, trai tráng khỏe mạnh cũng kiệt sức.
Họ cũng muốn dùng xe cút kít như Lâm Hà, nhưng khổ nỗi hai đại đội tuy gần nhau nhưng thuộc hai công xã khác nhau. Công xã Thủy Phụ giàu bao nhiêu thì công xã miền núi bên kia nghèo bấy nhiêu. Sống giữa rừng núi bạt ngàn gỗ mà không ai biết đóng xe cút kít.
Thế nên vụ xuân đến, họ chỉ biết trơ mắt nhìn đồng ruộng khô nứt nẻ, có người chịu không nổi quỳ xuống khóc lóc cầu trời mưa.
Không biết thế nào mà danh tiếng "người có phúc" của Hứa Minh Nguyệt lại truyền đến tai dân Thạch Giản. Có người ác miệng bảo: "Chắc chắn là do nhà họ Vương thất đức nên ông trời mới phạt không cho mưa!"
Lời này lọt vào tai Vương Chiêu Đệ, cô ta điên lên lao vào cấu xé người nói: "Bà nói láo! Tôi xé nát cái miệng thối của bà!" Cô ta tuy nhỏ con nhưng có cái tính điên khùng liều mạng, lúc đầu cũng dọa được người ta sợ.
Nhưng người kia, nghe con gái lấy chồng xa về kể chuyện Hứa Minh Nguyệt, liền lớn tiếng phản bác: "Không phải nhà họ Vương các người làm bậy thì là gì? Bà không nhìn xem trước khi cô ta về làm dâu, nhà bà sống thế nào? Nghèo nhất cái đại đội này! Cô ta vừa về cái là em trai bà được làm công nhân thành phố, không phải cô ta có phúc thì là gì?"
