Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - 19
Cập nhật lúc: 13/09/2025 05:18
Hắn nhận ra ta đang trêu ghẹo, liền thu tay về tay áo, hừ nhẹ:
“Hừ, ta đâu phải thứ chỉ để ngắm cho đẹp.”
Trên đường hồi thành, gió xuân hoà dịu, duy chỉ có con lừa già lê bước chậm chạp, đi được vài bước lại quên mất phải đi tiếp.
Ta không đành lòng ngồi mãi trên xe, bèn xuống dắt lừa. Thiếu gia và Lâm cô nương thấy trời sắp tối, bèn chia bớt đồ đạc trên xe chuyển sang ngựa, nhờ vậy mới kịp tiến vào thành trước khi cửa thành đóng.
Vừa đến đầu ngõ, người phủ Tướng quân đã chờ ở Xuân Hàn Trai đón Lâm cô nương. Nàng xuống ngựa, ôm chặt lấy ta một cái, dặn:
“Nhất định phải đến phủ ta chơi đấy!”
Ta khẽ ừ một tiếng, nhìn bóng dáng nàng rời đi, trong lòng dâng lên chút ngưỡng mộ. Cũng là người lớn lên ở Ninh Cổ Tháp, nhưng như thiếu gia và nàng, vẫn còn có thể vô tư rong chơi giữa ngày xuân thế này, mấy ai trong bọn ta còn có được? Người thì vội vàng xuất giá, người thì phải làm thân lao lực ngoài đồng trên núi rồi.
Chiều tối, quán ăn đã gần như ngồi kín chỗ. Chương ma ma đỡ tiểu thư xuống ngựa, hướng vào quán cao giọng:
“Đông Vũ trở về rồi đấy!”
Tổ mẫu đang bận rộn trong bếp cũng vén rèm chạy ra cửa nhìn ta một cái, miệng khẽ bĩu, rồi lại xoay người vào bếp tiếp tục bận bịu. Phu nhân đứng sau quầy tính toán, ngẩng đầu mỉm cười với ta. Cô cô đang bận rộn đến đầu tắt mặt tối liền hô:
“A Bố, mau rót bát sữa đậu cho Đông Vũ uống!”
Ta kéo lừa vào hậu viện theo cửa bên, chào cô trượng đang làm đậu phụ. Thiếu gia cũng dắt ngựa theo sau, ôm bó cỏ khô cho con ngựa được Tướng quân phủ ban. Ta nghĩ ngựa phủ Tướng quân chắc được ăn cỏ tốt, trong lúc đầu óc nóng lên liền ôm một bó to đi định cho lừa già nhà ta ăn.
Hắn thấy vậy liền bật cười:
“Ta đã cho lừa ăn cám với nước rồi, giờ chắc nó chẳng ăn nổi cỏ khô nữa đâu.”
Ta lúng túng ôm bó cỏ đứng ngây ra, miệng còn cứng:
“Ta để dành cho nó ăn ngày mai.”
Đến lúc quán đóng cửa, cả nhà ngồi lại dùng bữa. Dưa muối hầm xương, rau xuân trộn lạnh, cá mùa dầu áp chảo, khoai lang mật chiên giòn, toàn là món ta thích ăn do tay tổ mẫu làm.
Ta kể lại chuyện xe lừa chở đồ và việc thôn dân mong được bán rau dại cho quán. Ta vốn ngỡ phu nhân sẽ thấy khó xử, ai ngờ bà đồng ý ngay.
Những món rau dại do Lưu gia gia mang đến, qua tay tổ mẫu và gợi ý của phu nhân, cả nhà xúm nhau vào bếp thử nghiệm, quả nhiên kết quả rất đáng khen.
Ngoài các món chính, trên bàn còn đặt mấy đĩa đậu phụ mới – chính là món mới của quán: rau dại trụng nước, đem trộn lạnh làm mã tử, cắt đậu hũ thành ba đường ngang dọc, rưới các mã tử lên, phối sắc phong phú, vị lại thanh mát. Rau tề non xào thêm chút thịt bằm, thêm vào canh đậu phụ, thành món canh ngon lành.
Lúc đưa ra bán, lại thêm vài cái tên văn nhã, sắc – hương – vị đều đủ.
Thiếu gia còn soạn thêm lời chú thích, giải thích với cô cô để lúc khách gọi món có thể giới thiệu:
"Bồ công anh thanh nhiệt giải độc, giảm sưng đau; rau tề dưỡng gan bổ khí; nhân sâm đất sinh tân chỉ khát, giảm ho có đờm; cỏ chân khỉ bổ ích tỳ vị…"
Sau này ta mới biết, đây gọi là dược thực đồng nguyên*, thiếu gia lợi dụng chiêu này mà mở được cánh cửa vào các phủ quyền quý trong thành, đơn đặt món giao tận nơi cũng nhờ thế mà tăng nhanh.
(*“Thuốc và thực phẩm cùng một gốc” – nghĩa là thuốc và thực phẩm đều bắt nguồn từ cùng một nền tảng, nhiều loại thực phẩm cũng có thể vừa ăn vừa chữa bệnh, và nhiều vị thuốc cũng chính là thực phẩm.)
Giờ đây, Xuân Hàn Trai nổi danh khắp thành, bất kể giàu nghèo đều có thể tìm đến ăn một bữa no lòng. Nhu cầu nguyên liệu tăng mạnh, ngoài chợ mua lẻ thì giá cao, lượng ít, không lời bằng thu mua từ dân quê, vừa giúp họ có thu nhập, lại giúp quán tiết kiệm chi phí.
Đêm ấy, phu nhân đưa cho ta hai lượng bạc, bảo đó là tiền chia lợi tức ba tháng nay.
Ta âm thầm tính toán: một người được hai lượng, lẽ nào lãi thật lớn đến thế? Phu nhân liếc ta một cái, gõ vào đầu:
“Con nghĩ gì thế? Đây là phần chia của con, mọi người đều có tiền công.”
Ta nghi hoặc hỏi:
“Vậy… phu nhân và thiếu gia có phần không?”
Phu nhân bật cười, bảo ta ngốc. Nàng nói đây đâu phải kinh thành, tháng này buôn bán tốt, cả quán lời chừng mười lăm lượng, trừ chi phí, còn lời bảy lượng.
Cô cô và nhà ta mỗi người chia một lượng, cả tổ phụ tổ mẫu, mỗi người được năm trăm văn. A Bố mới vào làm cũng có một trăm văn, còn lại để quay vòng vốn, phần của Anh thúc để cuối năm tính.
Ta vẫn hỏi:
“Vậy phần của phu nhân thì sao?”
Phu nhân là người lo toan cả quán, từ việc đến người, dạy ta coi sổ sách, dạy cô cô học chữ, tuy bà không xuống bếp làm tay chân, nhưng từng chiếc đĩa, từng nhành hoa trong quán đều là tâm huyết của bà.
Thiếu gia tuy hay làm dáng, nhưng chính là biển hiệu sống của quán. Ta không hiểu sao người ta bảo hắn văn không ra văn, võ không ra võ, ta chỉ thấy hắn hơi mỏng manh chút, nhưng vốn sinh ra nơi giàu sang, có yếu đuối một chút cũng chẳng sao.
Hơn nữa hắn đầu óc linh hoạt, nghĩ ra đủ trò, còn viết chữ đẹp vô cùng. Không ít nho sĩ trong thành bị nét bút ấy hút đến, ngay cả phần cơm giao đến phủ quý nhân cũng vì tờ ghi chú của hắn mà dám nâng giá gấp đôi.
Nếu không có hai người ấy, nhà ta nhiều nhất chỉ làm được một quầy bán đậu ven đường.
Phu nhân nhìn ta, khẽ nói:
“Đứa trẻ ngon.”
Bà cúi đầu uống một ngụm nước, ngẩng lên, vành mắt đã đỏ:
“Ta sao có thể nhận phần lời? Theo lý thì cả tiền công của Chương ma ma cũng không nên lấy, nhưng ta thấy bà ấy vất vả quá nên tự ý đưa bà một phần.”
Giọng bà dần nhỏ đi:
“Từ kinh thành lăn lộn đến tận nơi này, ở nhờ nhà con đã lâu, hồi môn nhà mẹ đẻ chẳng rõ vì sao còn chưa đưa đến. A Miên còn nhỏ, Minh ca nhi lại yếu đuối, sau một trận họa lớn, may nhờ gặp nhà con… Vậy mà hắn vẫn nghĩ mình còn là công tử kinh thành… Ăn mặc vẫn phải nhờ tiếp tế… Là mọi người khiến ta thấy cuộc đời vẫn còn chút hy vọng…”