Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - 20
Cập nhật lúc: 13/09/2025 05:18
Nói đến đây, bà nghẹn ngào bật khóc. Ta sợ đến phát hoảng — trong gió tuyết còn dám đùa người khác là bà, sao giờ lại khóc thế này?
Ta định đến ôm baf an ủi, lại không dám.
Tổ mẫu bưng thau gỗ đẩy cửa bước vào, nhìn phu nhân nói:
“Đừng khóc nữa, hài tử, đến đây rồi thì chính là người một nhà.”
Phu nhân lau nước mắt, cảm kích gật đầu với tổ mẫu.
Tổ mẫu chắc trong đời chưa từng thấy người đẹp đến thế rơi lệ, nên nói xong liền quay sang quát ta:
“Còn lề mề cái gì, mau vào bếp nhặt rau. Anh lão gia tới rồi, còn mua cả kẹo hồ lô!”
Ta vội quay sang nói với phu nhân:
“Con hiểu rồi, đa tạ phu nhân.”
Rồi chạy ra ngoài, vừa hay đụng mặt thiếu gia cầm kẹo hồ lô đứng ở cửa, chắc là muốn đưa ta. Ta không chờ hắn mở miệng, đã giật lấy rồi chạy mất.
Tên này sao lúc nào cũng rảnh rỗi đứng ở cửa vậy chứ — đúng là ‘đại nhàn nhân’!
25
Trong thành chẳng thiếu một người như ta, nhưng nơi thôn dã này, đậu non nhà ta cần được dời trồng, ngô phải gieo, còn phải dựng giàn bí, lại có tổ phụ cùng Tiểu Hoàng đang đợi ta trở về.
Sáng sớm hôm sau, ta đưa tiểu thư đi ăn hoành thánh, rồi đưa nàng tới thư viện. Khi chia tay, nàng lưu luyến không nỡ rời, ta bèn hứa lần nghỉ tiết Đoan Dương sẽ tới đón nàng về thăm quê.
Tiện đường ta vào chợ mua chút đồ, rồi tới chỗ phu nhân nhận số bạc bà đã thanh toán giúp theo sổ hôm qua.
Lần này, ta không để tổ mẫu nhét bánh vào bọc như trước nữa, mà dậy sớm xuống bếp nói rõ:
“Hôm nay con muốn ăn bánh ngô trộn ít bột mì, ở giữa kẹp xúc xích hun khói và đậu khô. Tối nay con với tổ phụ ăn thêm cái móng giò, gọi là có chút món mặn.”
Cô cô, cô trượng cười trộm, tổ mẫu bĩu môi:
“Có muốn lão thân phi sang tận Hắc Long Giang bắt con rồng về quay cho tiểu thư không?”
Ta đáp tỉnh bơ:
“Cũng không phải không được. Nhưng nhớ nướng kiểu khô cay cho con.”
Mọi thứ chuẩn bị ổn thoả, ta dắt lừa già ra khỏi cổng sớm, tính cho nó đi thong thả chút. Bánh tổ mẫu làm thơm quá, khiến ta mơ màng suốt cả đoạn đường, tới khi đi được một quãng mới phát hiện thiếu gia cũng đang ngồi trên xe lừa.
Ta hỏi:
“Thiếu gia huynh làm gì ở đây?”
Hắn đáp:
“Ta cũng muốn về thôn.”
Ta lại hỏi:
“Huynh về làm gì?”
Hắn thản nhiên nói:
“Dĩ nhiên không phải để làm bình hoa.”
...
Chậm rãi về tới thôn thì vừa hay bắt gặp dân làng từ ruộng về. Nhìn thấy chúng ta, thần sắc mỏi mệt bỗng đổi thành nét tươi cười niềm nở. Ta mời mọi người vào sân nhà ta nói chuyện.
Nhà Trương thẩm: 70 văn, Tam nãi: 60 văn, nhà thôn trưởng: 65 văn… người được nhiều nhất là Diêm đại thúc – cái đùi nai kia nặng tới hơn bốn cân, cộng thêm ít rau rừng, được cả thảy 210 văn.
Phu nhân từng nói, nếu ở kinh thành, cái đùi nai này ít nhất cũng đáng nửa lượng bạc. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ khiến dân làng mừng rỡ khôn xiết, hết lần này tới lần khác sờ tiền, ngắm nghía thật giả.
Năm tháng như vậy, sau khi nộp thuế, lo lễ, có thể không c.h.ế.t đói đã là may, còn đồ dư thừa đều đem đổi lấy tay nghề, công phu hoặc vật dụng, bao nhiêu người cả đời chưa từng nhìn thấy tiền mặt ra sao.
Diêm đại thúc cầm bạc, gương mặt đen sạm như nhuốm chút đỏ ửng:
“Đông Vũ à, bữa trước ta ăn nói không phải, ngươi đừng để bụng.”
Ông nghẹn giọng:
“Giờ thì thẩm thẩm nhà ta cuối cùng cũng có thuốc uống rồi, dù c.h.ế.t hay sống cũng đỡ khổ một chút.”
Lời vừa dứt, không ít người quanh đó cũng bắt đầu sụt sùi.
Những ngày gần đây, ta đã thấy không ít nước mắt, nhưng vẫn chẳng biết nên xử lý thế nào. Ta liếc nhìn thiếu gia, cầu cứu. Hắn vung tay áo, đứng dậy bước ra giữa sân, cất giọng:
“Từ nay về sau, ba ngày thu mua dược thảo một lần. Hết xuân sang hạ, rau trái mùa hè cũng thu theo chu kỳ ba ngày. Nếu có săn được thịt rừng hay hải sản, quả rừng mùa thu, mùng một hay rằm mỗi tháng đều có thể đưa đến.”
“Không cần phải nhịn ăn mà mang hết ra, cái gì tốt mới lấy, phần kém giữ lại cho nhà ăn hoặc tự xử lý. Triều đình có cấm lâm cấm ngư, không thể vì mấy đồng bạc mà phạm luật quan phủ. Dù đây là nơi rồng cưỡi không tới, lỡ xảy ra chuyện, cả thôn sẽ chịu vạ.”
Lời hắn nói tuy nhẹ nhàng, nhưng mỗi người đều nghiêm túc lắng nghe. Sau đó, hắn còn tường tận giảng cho mọi người về ranh giới của lệnh cấm lâm cấm ngư, những gì có thể làm, thời điểm nào được phép.
Hắn lại nói, nếu không kịp chở về, có thể phơi khô làm rau dự trữ, ai biết làm dưa muối, mỗi ngày mang một ít tới, hắn sẽ mang vào quán cho thực khách nếm thử. Ai làm ngon sẽ đặt hàng lâu dài, mà dưa muối giá chẳng thấp, ngang với thịt tươi.
Mọi người hài lòng tản đi, ta tưởng thiếu gia sẽ đắc ý, nhưng hắn lại quay sang hỏi tổ phụ:
“Trong thôn, xưa nay ngày tháng đều khổ cực như vậy sao?”
Tổ phụ rít một hơi thuốc dài, rồi thở ra một tiếng thật nặng:
“Thôn ta lập làng sớm, ruộng chia về từng nhà. Tuy chẳng trồng được gì cho ra hồn, nhưng còn có đất mà bới móc, quanh năm lao động, lại ở nơi cao trời xa, rừng núi sông suối còn có cái mà vớt vát, c.h.ế.t đói không nhiều.”
Ông ngẩng nhìn bầu trời xa thẳm, gió đồng nổi lên. Tổ phụ vỗ vỗ ghế gỗ bên cạnh, ý bảo thiếu gia ngồi, rồi tiếp:
“Từ khi Tướng quân Trang gia đến Ninh Cổ Tháp, cuộc sống khá hơn chút. Thuế vẫn vậy, nhưng không còn quan lại tầng tầng lớp lớp đè đầu, chỉ có binh lính phủ Tướng quân tới thu một lần là xong. Triều đình lại cử Phạm đại nhân tới đây, cho người xuống phủ dạy dân trồng khoai lang và khoai tây. Thứ đó dễ trồng, no bụng. Năm đó, làng ta có hai mảnh ruộng lúa, vừa trổ bông, mọi người vui lắm, nói năm nay cống xong gạo, nhất định bảo thôn trưởng nấu cơm trắng cho cả làng ăn thử.”
“Nhưng ông trời đâu nể tình ai, bất kể ngươi là người Mãn, người Hồ hay kẻ Nam Man, mưa cứ trút không ngớt. Trẻ con khóc, người lớn buồn. Rồi bọn buôn người cũng tới. Đông Vũ chính là bị bán lúc đó.”