Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - 29
Cập nhật lúc: 13/09/2025 05:19
Không biết đã đi bao lâu, ta dường như thấy thành Ninh An. Tại sao muộn thế mà cổng thành chưa đóng? Nhiều người từ trong thành đi ra, như một đoàn rước dâu, sau còn có quan binh hộ tống.
Khi ta mở mắt, đã thấy mình nằm trong phòng ở Xuân Hàn Trai. Mở mắt ra là ánh mắt như nhìn kẻ ngốc của Anh thúc, còn Tiểu Hoàn thì nhảy cẫng lên rên rỉ.
Triệu Nhị Thiết bưng một bát thuốc bước vào, thấy ta tỉnh thì thở phào:
“Ngươi đúng là đồ ngốc! Tỉnh rồi thì tốt, tự uống thuốc đi. Trời thế này, nửa đêm nửa hôm ngươi còn lặn lội mà đến.”
Hắn nói sau khi thiếu gia vào phủ tướng quân thì không về lại nữa. Hắn bị giữ ở quán. Đêm qua nghe tiếng chó quen thuộc, lại thấy cửa bị cào, mở ra thì thấy Tiểu Hoàng và ta ngất ngay ngoài cửa. Hắn liền đi tìm người quen nhất trong thành — Anh thúc.
Anh thúc gọi đại phu, ép ta uống hai bát thuốc, còn nấu cho Tiểu Hoàng bát canh trứng gà. Rồi thức canh ta cả đêm, còn Triệu Nhị Thiết thì canh thuốc.
Sau khi xác nhận lại tin lão gia mang đến là thật, Anh thúc lại trở về vẻ lười biếng, ngồi tựa vào ghế, nâng bình trà, phát hiện hết nước thì đặt xuống, không rõ là cảm khái hay mỉa mai, nói:
“Ta đã bảo mà, nồi nào úp vung nấy. Giờ thì người tiền mất cả hai rồi.”
Triệu Nhị Thiết thì ấp úng:
“Đông Vũ, ngươi đừng buồn, Minh ca chắc có nỗi khổ tâm.”
Anh thúc cười nhạt:
“Nỗi khổ gì? Ngươi có thể lấy ân tình ra ép người, người khác cũng thế thôi. Kẻ làm lớn, lòng dạ thường bạc. Cúi mình một cái mà vực dậy được Ngô gia, nghe nói Lâm gia ở Tế Nam giàu đếm không xuể, tướng quân phủ còn cử nửa quân đi theo tân nương, thế nào cũng giữ được tài sản cho chi thứ hai.”
Ta không buồn nghe hai người lắm lời, sau khi xác nhận thật giả, trong lòng ngược lại cảm thấy nhẹ nhõm. Uống hết bát thuốc, ta gọi:
“Anh thúc.”
Ông “ừ” một tiếng, còn chưa hiểu chuyện gì, ta mỉm cười:
“Sơn hàng là do Ngô Tiêu Minh lập ra trước khi nhập trướng phủ tướng quân. Khi ấy hắn còn là con cháu phạm quan, không được kinh thương, tức là làm việc lặt vặt cho nhà ta. Nay hắn đi rồi, cửa hàng này nên thuộc về ta. Ấn tín, sổ sách, giao cho ta đi.”
Anh thúc không bất ngờ, chỉ đứng dậy, vỗ mặt Triệu Nhị Thiết:
“Thấy chưa? Con nha đầu lạnh lùng này, ngươi còn thương xót nó, lo xem có bị đuổi việc không.”
Ông phủi áo, nói:
“Con đường là ta khai, tiệm là của ta, người làm cũng là ta chọn.”
“Ba thành lợi nhuận.” — ta nói.
“Tối qua ta đi mặt dày mời đại phu, còn canh chừng ngươi suốt đêm.”
“Bốn thành!”
“Ngươi chưa làm hàng khô bao giờ, lại không rành giao thương…”
“Năm thành!”
“…Thành giao!”
Lão già gian xảo lập tức nhấc chân rời đi. Ta gọi lại:
“Khoan đã, Anh thúc, ta cho ông sáu thành!”
Ta lồm cồm bò dậy, quỳ thẳng xuống, khiến ông giật mình lui lại, suýt vấp cửa.
Ta nghiêm túc:
“Ông phải dạy ta quy củ buôn bán, truyền ta bí quyết. Không dạy không được. Một ngày làm thầy, cả đời làm cha. Ông dạy ta, ta nuôi ông đến trọn đời.”
Mặt ông biến sắc, thu tay lại, xoay xoay bình trà rỗng, đi đến ngồi xuống mép giường, nhìn ta chằm chằm:
“Con nha đầu c.h.ế.t tiệt kia, còn quỳ đó làm gì? Mau đi nấu nước, rót cho ta ly trà nhận con gái đi!”
Chờ đến khi ta gọi ông là “nghĩa phụ”, dập đầu kính trà, ông uống xong một hơi, Triệu Nhị Thiết đứng ngẩn ra bên cạnh:
“Anh thúc, ông nhận Đông Vũ, còn dạy buôn bán, thì sáu thành lời này chẳng phải trắng tay sao? Mai kia nàng ta dưỡng lão cho ông, tiền của ông cũng thành tiền nàng ta hết còn gì!”
“Này! Triệu Nhị Thiết! Vừa rồi sao không nhắc ta hả!”
33
Mùa đông năm nay không còn bi thương hoảng hốt như năm trước, cũng chẳng còn náo nhiệt như năm trước. Gió tuyết hoành hành vẫn giống hệt những năm đã qua. Việc buôn bán của tiệm cũng chỉ cầm cự đến cuối tháng mười, khách ra vào thưa dần, tiệm xem như đóng cửa nghỉ, chỉ ba ngày mở cửa một lần bán đậu phụ.
Ta ở trong hàng sơn vật của Anh thúc — hiện nay cũng là hàng sơn vật của ta — theo chân ông học nhìn bản đồ, nghe ông giảng giải phong tục nhân tình của mười tám tỉnh nội địa, học phân loại hàng hóa, tùy theo nơi chốn mà điều phối vào ra, học cách đặt nhãn bắt mắt cho món hàng, học cách quan sát nhu cầu của người khác.
Thiên tự văn ta đã học xong từ lâu. Anh thúc đưa cho ta vài quyển du ký và thương kinh, bảo rằng:
“Làm buôn bán, đọc sách nhiều là chuyện tốt, trong sách cái gì cũng có.”
Ta chưa thấy mình có thiên phú làm ăn gì rõ rệt, nhưng khi đọc đến du ký lại như đắm chìm vào từng câu từng chữ miêu tả non sông gấm vóc. Hóa ra ngoài đại giang đại hà còn có biển cả; hóa ra không phải núi nào cũng một đêm tiêu điều, mà có nơi xanh biếc bốn mùa; hóa ra ngư miền chi hương thật sự sung túc, trung nguyên quả thật hùng vĩ. Hóa ra thế giới bên ngoài rộng lớn đến vậy, mà nơi ta sống lại quá đỗi hẻo lánh.
Trước khi về làng ăn Tết, ta mang y phục, hài mới, bạc lẻ và thịt khô đến gửi cho lão gia. Nhân tiện mời Anh thúc về quê đón xuân, cũng tiện xin thêm mấy quyển sách; về quê rồi ta lại tìm A Miên mượn sách, thứ ta thích nhất vẫn là du ký và sử thư.
Dường như ta đã mở ra một cánh cửa kỳ diệu — du ký dẫn ta du ngoạn sơn hà, sử thư thay ta giải đáp nghi hoặc.
Cả mùa đông ta vùi đầu trong sách, như lạc vào một thế giới mới. Có vẻ như ta đã tìm được một thứ còn khiến ta vui hơn trồng trọt nấu cơm. Ta suốt ngày ru rú trong phòng, chẳng muốn bước ra ngoài.
Người nhà lo lắng, tổ mẫu và cô cô cứ viện đủ cớ ghé vào phòng ta dăm ba vòng; tổ phụ cũng thỉnh thoảng đến nhờ ta giúp tay; “Minh gia quân” mượn cớ đại phòng chật chội mà chạy sang phòng ta chơi, thực ra là để ở bên cạnh ta. Anh thúc cũng thường ghé tới, châm chọc vài câu rồi sai ta đi làm việc; còn phu nhân và ma ma thì lặng lẽ dán lại tờ giấy cửa sổ bên giường, thấy ta đêm chưa ngủ còn thay tim đèn thật dài...
Tất cả những điều ấy ta đều biết. Nhưng ta không muốn rời mắt khỏi sách. Bởi ta biết, xuân vừa tới, lại phải cuốn vào bộn bề cuộc sống.
Lần đầu tiên trong đời, ta chỉ muốn quan tâm đến bản thân mình, để cái "ta" trong lòng được phóng đại ra không chút gò bó.