Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - 9
Cập nhật lúc: 13/09/2025 05:17
Ta đang đứng bên nồi củ cải thái sợi đổ bột ngô vào nấu, để nguội bớt chính là cám heo ấm áp—trong mùa đông lợn ăn no béo tốt, Tết đến cũng thêm được mấy bữa thịt.
Thiếu gia tiểu thư đã quen với cái rét phương Bắc, hai người cùng nhau nặn người tuyết trong sân. Nghe thấy tiếng cổng mở, tổ mẫu trong bếp lên tiếng hỏi ai tới. Tiểu thư đáp bằng giọng ngọt ngào:
“Nãi nãi ơi, là một vị phu nhân trẻ.”
Ta từ chuồng lợn bước ra, liền thấy cô cô mang vẻ mặt ngơ ngác, tay xách nặng trĩu nào là túi to túi nhỏ, bên cạnh là cô trượng —một hán tử đen khỏe, hẳn chính là người nam nhân thật thà của cô cô.
Cô cô vừa thấy ta, còn đang cầm muôi cám lợn trong tay, lập tức ném hết đồ xuống đất, chạy tới ôm lấy ta mà khóc. Vào trong nhà nghe rõ sự tình, nàng lại càng khóc to hơn.
Dỗ dành cô cô xong, mọi người cùng ra mắt nhau. Tổ mẫu kéo tiểu thư lại, chỉ vào cô cô rồi nói với nàng và thiếu gia:
“Đây chẳng phải vị phu nhân nào cả, mà là một kẻ quậy phá khác trong nhà, các con cứ gọi cô cô là được rồi.”
Cô trượng và tổ phụ cùng ra bếp xem nên xây kháng thế nào ở góc trống. Ta đi theo tổ mẫu nấu cơm.
Thiếu gia cười toe chạy theo tổ mẫu, nói muốn giúp nhóm lửa. Một chốc sau, lửa chưa cháy, trên khuôn mặt trắng như tuyết của hắn đã lấm tấm tro bụi. Tổ mẫu vội sai ta múc nước rửa mặt cho hắn, lại dúi cho một nắm hạt dẻ rừng, đuổi vào trong phòng nói chuyện với phu nhân.
Tháng Chạp đến mùng bảy mùng tám, lạnh đến nỗi hàm rụng răng, nên người xưa nói phải ăn cơm nếp vàng để dính chặt hàm lại.
Ta canh nồi nếp vàng sôi rền, thỉnh thoảng đảo đáy nồi để khỏi cháy. Tổ mẫu lấy con gà rừng đông cứng trong chum ra—là tổ phụ đặt bẫy được trên núi từ mùa thu. Bà chặt gà thành khúc nhỏ, trụng sơ qua rồi để ráo, phi thơm tỏi và ớt khô trong chảo dầu nóng, cho thịt gà vào xào đều, đổi màu rồi nêm muối, lại cho nước xâm xấp, đổ vào nồi đất, đặt lên lò than om nhừ.
Khi nếp vàng đã được, tổ mẫu lấy dưa muối cắt nhuyễn trộn gỏi. Lại sai ta xuống hầm đào một cây cải thảo, rửa sạch, chẻ đôi, rồi thái nhỏ xào nhanh tay, khi chín thì tưới dấm lên—cải chua cay nóng hổi liền xong. Bà rửa sạch nấm dẻ từ sáng, hé nắp nồi thịt gà cho nấm vào, thêm chút muối, rồi lại đậy nắp hầm tiếp.
Ta rửa sạch nồi, tiếp tục giữ lửa. Tổ mẫu lại rưới dầu, lấy đậu phụ tươi cô cô mang về cắt khối, dán lên thành nồi, trở mặt rồi vớt ra—món đậu phụ chiên vàng hai mặt đã xong.
Biểu cô còn mang về một chum mỡ heo. Tổ mẫu lấy một muôi, cho hành trắng vào xào thơm, rắc thêm vừng muối, đảo đều rồi vớt một nửa ra. Nửa còn lại thêm tỏi băm, ớt bột, đổ vào đậu phụ chiên, xào đều rồi múc ra.
Ta và Tiểu Hoàng đều ngửi được mùi thơm, nhào lại gần. Tổ mẫu quay lại, tiện tay gõ đầu ta một cái, rồi lại dúi cho một miếng đậu phụ bóng mỡ, mắng:
“Đồ tham ăn đầu thai!”
Ta cắn một nửa, chia cho Tiểu Hoàng. Thấy vậy, tổ mẫu định giơ tay lên dọa đánh ta, ta vội rụt cổ lại, ai dè bà lại nhét cho ta một miếng thịt xông khói vừa mới cắt xong.
Ta vừa nhai thịt, thơm đến nức lòng, thì tiểu thư ló đầu từ ngoài cửa bếp vào, tay ôm chú hổ vải mà tổ mẫu may cho nàng hôm trước, miệng kêu:
“Nãi nãi, con thèm đến mê mẩn luôn rồi!”
Tổ mẫu rót thau nước vo gạo vào nồi, vội kẹp một miếng đậu phụ chạy tới ngồi xổm trước mặt nàng:
“Ai da, A Miên của ta đói rồi sao, mau mau, ăn thử miếng này!”
Chỉ thấy đầu của thiếu gia cũng thò vào:
“Nãi nãi, con cũng thèm đến mê mẩn rồi!”
12
Qua mồng tám tháng Chạp là đã cận Tết, nhóm phạm nhân cùng lão gia cuối cùng cũng đến được Ninh Cổ Tháp.
Cô trượng kiểm tra lại chiếc xe ngựa ta đánh về, sau đó dẫn ta cùng mọi người vào thành thăm lão gia, nhân tiện mang đậu phụ giao cho khách quen trong thành và sắm sửa chút hàng Tết.
Khi gặp lại, sắc mặt lão gia tuy tiều tụy đi nhiều, thân hình gầy gò, nhưng thần sắc vẫn ổn. Số bạc mang theo khi xuất phát quả nhiên phát huy tác dụng, thịt khô và áo bông kịp thời giữ ấm, giúp ông vượt qua cơn khốn khó. Cũng may không bị sung vào quân doanh làm nô dịch cho binh lính, lão gia thân là quan phạm, được phân đến dịch quán làm văn thư ghi chép, mỗi mùng Một và Rằm thì vào nha môn trình diện, viết biểu tấu bày tỏ lòng ăn năn hối cải cùng sự cảm tạ triều đình.
Dọc đường có không ít phạm nhân bỏ mạng, tình cảnh của nữ quyến càng thê thảm. Nghe kể lại, thiếu gia siết chặt nắm tay, ánh mắt phức tạp liếc nhìn ta một cái. Phu nhân ôm lấy tiểu thư, nắm c.h.ặ.t t.a.y ta, lặng lẽ rơi lệ.
Ta để phu nhân và tiểu thư ở lại trò chuyện cùng lão gia, rồi cùng thiếu gia theo cô trượng đi sắm sửa đồ Tết. Hắn lững thững đi sau, hai tay vẫn nắm chặt, chiếc mũ trùm rũ xuống sau vai, áo choàng chẳng buồn cài, đi được mấy bước, mũi và mặt đã đỏ bừng lên vì lạnh. Ta dừng bước, quay lại giúp hắn đội mũ, cài áo choàng cẩn thận. Định mở tay hắn ra để đeo găng vào, hắn cũng dừng lại, lặng lẽ nhìn ta, rồi bỗng siết lấy tay ta, đôi mắt hoe đỏ:
"Tiểu Vũ… cảm ơn muội."
Mới chưa tròn một năm, hắn đã cao hơn ta một cái đầu. Nhìn vào đôi mắt sáng trong như gương của hắn, ta khẽ thở dài, không rút tay ra, chỉ nhẹ nhàng kéo hắn đi tiếp, bước vào thế giới trắng xóa băng tuyết trước mắt.
Chúng ta để lại cho lão gia mười lượng bạc, áo ấm và giày lông mới làm, cả bánh nếp mẹ ta dậy từ mờ sáng để đồ, cùng lạp xưởng nhà làm. Dặn ông phải giữ gìn sức khỏe, bởi mùa đông phương Bắc lạnh lẽo, tuyết phủ dày không tan, dân quanh đây đều đóng cửa tránh rét, đành chờ đến tiết xuân mới có thể tới thăm lần nữa.