Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 165: Ngôi Mộ Mới Của Lão Thợ Lặn
Cập nhật lúc: 05/11/2025 07:11
Lão Dịch trông có vẻ rất ngạc nhiên, vội gọi tôi đến. Tôi thấy anh ta đang ngồi xổm nghịch cái nắp quan tài, trong bụng biết ngay không phải đối phương rảnh rỗi chơi đùa, chắc chắn là có phát hiện gì quan trọng.
Tôi bước tới, khẽ hỏi: “Có chuyện gì vậy?”
Lão Dịch chỉ vào con cóc đá trên nắp quan tài, nói nhỏ: “Thứ này quái lắm, cậu nhìn xem.”
Tôi cúi xuống quan sát kỹ, thấy con cóc đá ấy dính chặt trên mặt gỗ, mà ở mặt dưới của tấm ván lại có một cây đinh nhọn hoắt đ.â.m xuyên ra chừng một tấc. Nắp quan tài đang đặt nằm ngang trên đất, thế mà cây đinh kia lại không hề cắm xuống đất, quanh chỗ ấy còn có một mảng đất nhỏ bị thấm ướt trong thời gian rất ngắn.
Lão Dịch nói với tôi: “Cái này hình như thật sự có gì đó kỳ lạ. Cậu biết đấy, học thuật Kỳ Môn cũng giống như nghiên cứu khoa học vậy. Tôi vừa xem qua thì phát hiện con cóc này thực ra là một loại đinh đặc biệt. Cậu nhìn đây, trên cái đinh nhỏ xíu ấy lại có khắc ký hiệu Tam Tài, giống như trên mặt đồng hồ của tôi vậy. Theo như sách ghi: ‘Vạn vật sinh từ thủy, Tam Tài dẫn thủy bằng một mũi kim’. Cây đinh này có lẽ là thứ tương tự với ‘Tam Tài Dẫn Thủy Châm’ trong phép tạo hình của Kỳ Môn đạo thuật. Tôi để ý thấy, chỉ cần khoảng hai phút là có thể hút ẩm trong không khí, khiến hơi nước tụ lại thành giọt. Thật quá cao tay, ngay cả tôi cũng chưa học được kỹ thuật này!”
Nhìn bộ dạng nghiêm túc của lão Dịch, trông vừa buồn cười vừa thương. Hóa ra chứng bệnh ngây ngô của anh ta hôm nay lại tái phát, đang lúc cả đám vội đến cháy nhà thì anh ta vẫn đóng vai nhà khảo cổ. Còn mấy chuyện học thuật của lão Dịch thì tôi chịu, hoàn toàn không hiểu nổi. Đó chính là điểm yếu c.h.ế.t người của tôi, là vực thẳm giữa tôi và “nhà khoa học dân gian” này.
Tôi đành khẽ động viên: “Tiểu Dịch à, đừng nản. Anh cứ học đi, sớm muộn cũng thành người có ích của đất nước. Cố lên, đưa Thần Cửu của nước mình lên trời nhá.”
Đối phương ngơ ngác hỏi: "Cậu nói gì cơ? Thần Cửu thì liên quan gì đến tôi?”
Tôi hơi cáu: “Thì có liên quan đâu. Giờ còn nghiên cứu mấy cái kim dẫn nước với mũi kim ấy làm gì. Muốn nghiên cứu thì mang về mà nghiên cứu, bây giờ cứ ở đây mà thí nghiệm à? Người ta còn phải làm việc.”
Lão Dịch chợt tỉnh ra, vội hiểu ý, đúng vậy, đứng đây có ích gì đâu. Thế là chúng tôi cúi xuống, lượm một miếng gỗ làm búa, tỉ mỉ gõ từng tý một để gỡ cái con cóc đá ra khỏi tấm ván quan tài. Cầm trên tay mới thấy nó không nặng như tưởng tượng, ruột hình như được làm bằng gỗ, bên ngoài trát một lớp vữa xi măng. Phải thừa nhận, nếu quả thật thứ này là do thợ mộc làm thì cái truyền thuyết dân gian về tổ nghề mộc Lỗ Ban từng biết chút kỳ thuật có vẻ cũng không hoàn toàn vô căn cứ.
Lão Dịch gói con cóc lại cẩn thận rồi nhét vào túi. Lúc này chú Văn gọi chúng tôi đi qua chỗ mọi người, chắc vì nước trong quan tài đã múc xong. Tôi và lão Dịch đứng lên đi về phía đó.
Lão Dịch thì thầm hỏi: “Lão Thôi, cái âm thi này chắc cũng tính là cương thi rồi nhỉ? Hay mình tranh thủ lấy của nó hai lạng m.á.u đi?”
Tôi cạn lời, bèn nói: “Lấy cái khỉ gì mà lấy! Người thì đông, mắt mũi tứ phía, làm sao mà không bị phát hiện được? Với lại, anh cũng thấy rồi đấy, cái 'lão nhân sâm' đó làm ‘thợ lặn’ trong quan tài đã mấy năm nay, sớm mục nát hết rồi, còn giọt m.á.u nào nữa mà lấy!”
Lão Dịch thở dài, trông thất vọng rõ rệt. Thật ra trong lòng tôi cũng buồn chẳng kém, tận mắt thấy được một xác sống mà chẳng làm gì được, đúng là bực mình c.h.ế.t đi được.
Mùi xác thối tuy có giảm đi đôi chút, nhưng vẫn đặc quánh như mùi tương nặng. Chú Văn bảo tôi với lão Dịch ra chỗ huyệt cũ xúc ít đất ẩm mang về. Chúng tôi không biết lão thần côn đó lại định bày trò gì, nhưng vẫn ngoan ngoãn đi lấy một túi nylon đầy đất ướt.
Khi quay lại, thấy mọi người đã chuẩn bị đậy nắp quan tài, tôi liền bước tới gần chú Văn, nói nhỏ: “Chú Văn, cái con cóc trên nắp quan tài đó thật sự quá tà. Lúc nãy cháu đã gỡ nó ra vứt đi rồi, chú xem làm vậy có ổn không?”
Ông ấy chỉ hừ lạnh một tiếng, không đáp lời. Đúng lúc ấy, mọi người đã đặt nắp quan tài lên, buộc chặt bằng dây thừng, rồi dùng bốn cây tre xuyên qua để khiêng.
Mọi việc xử lý đâu vào đấy, chú Lâm bỗng lên tiếng, giọng trầm đặc như người dẫn chương trình truyền hình:
“Các vị, vừa đúng giờ lành! Nào, chúng ta mau đưa cụ Chân sang nơi an nghỉ mới thôi.”
Nói xong, ông ta vốc một nắm tiền âm phủ tung lên trời, giấy bay lả tả như tuyết. Vài thanh niên lập tức khiêng quan tài lên, cả đoàn người nối đuôi nhau, rầm rập tiến về phía ngôi mộ mới.
Tôi và lão Dịch vẫn đi ở cuối đoàn. Tôi hỏi anh ta: “Anh đã biết t.h.i t.h.ể đó biến thành âm thi, chắc cũng biết cách phá giải nó chứ? Nói thử xem. Dù sao bây giờ hai lão thần côn kia đã chẳng trông chờ gì được, chúng ta có giúp được gì không? Dì Chân cũng tử tế, nếu bị cái xác nằm trong quan tài vài chục năm kia hại tới thì tiếc quá.”
Lão Dịch gật đầu rồi nói với tôi: “Cách phá? Đã bắt đầu phá rồi đấy.”
Cái gì? Tôi nghe mà chẳng hiểu. Thấy tôi còn ngơ ngác, lão Dịch giải thích thêm, thực ra Bát Diệu Sát có thể coi là một dạng “thế” trong phong thủy. Phong thủy chú trọng thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Điều đáng sợ của Bát Diệu Sát là nó g.i.ế.c người hậu thế không báo trước, làm người ta không kịp phòng bị, cho nên mới nổi tiếng. Nhưng vì nó không hẳn là xác sống c.ắ.n người, nếu phát hiện do Bát Diệu Sát gây nên thì gọi một thầy âm dương tương đối thạo nghề là có thể hóa giải được.
Có ba cách xử lý Bát Diệu Sát. Một là hỏa táng, thiêu xác thành tro, xem nó còn làm mưa làm gió được không. Hai là dùng thuốc, những bài t.h.u.ố.c dân gian như bỏ lưu huỳnh khiến xác mau mục rữa, mục thành xương rồi thu thập lên thờ cúng lại. Cách cuối cùng là cải táng, chỉ cần dời cái xác đi chỗ khác thì thế phong thủy đó sẽ bị phá, đem chôn ở nơi mới thì xác cũng sẽ từ từ hóa thành tro bụi.
Nghe lão Dịch nói vậy, tôi bớt lo hẳn. Thì ra chẳng có “công nghệ cao” gì ghê gớm, một cái xác đã thành thế phong thủy cũng chỉ có mấy cách xử lý ấy thôi. Thật ra cụ Chân cũng đáng thương, nếu cụ ở dưới suối vàng mà biết chuyện, biết xác mình bị ngâm mấy năm như thợ lặn, không biết sẽ ra sao. Suy cho cùng vẫn phải trách người con út nhà họ Chân, chẳng có gì đáng để thương. Nói theo tục ngữ, đó là “đáng đời”; nói theo kinh Phật, đó là “báo ứng”.
Hắn vừa trồng t.h.u.ố.c phiện lại còn hại đời cô gái kia, e rằng đời sau khó mà làm người được. Nếu may mắn chút thì còn đỡ, chỉ sợ có khi không gặp được lão Tạ lão Phạm nữa, mà bị lão Ngưu lão Mã bắt về làm súc vật kiếp sau. Nếu xui hơn thì chịu khổ, bị lôi xuống địa ngục luộc cho mấy vòng, trải thêm mấy nghìn năm mát-xa kim châm rồi mới được tái sinh.
Nghĩ tới đó, tôi với lão Dịch thấy nhẹ nhõm phần nào, đúng kiểu phim truyền thống: kẻ ác gặp báo ứng, cái ác cuối cùng sẽ bị chính nghĩa đ.á.n.h bại. Dù chúng tôi không có được m.á.u cương thi đem về, nhưng nếu mọi chuyện được giải quyết ngon lành như vậy cũng đã là kết cục trọn vẹn.
Tôi lầm bầm mấy câu, nếu thật sự không xong thì tôi đi đào mộ tổ tiên nhà người ta cũng được, tôi không tin có Thạch Quyết Minh kiểu GPS định vị con người mà còn không mò ra được một miếng “thịt ướp”!
Chẳng mấy chốc đã đến nơi chọn để cải táng. Xung quanh đã được dọn từ hôm qua, cỏ rác được nhổ sạch, huyệt đã đào xong, chỉ cần đặt quan tài vào là xong. Đến mép huyệt, như thường lệ, vẫn cần hai lão thần côn đứng ra chủ trì nghi lễ cuối cùng.
Chú Văn đứng trước mọi người, trang nghiêm nói: “Nhà mới đã tới, giờ lành gặp chỗ tốt, con cháu sẽ được phú quý. Mọi người vất vả rồi, đại gia đình xin cảm tạ!”
Người nhà họ Chân cùng đám thợ phụ đồng loạt cúi chào rồi đứng dậy, chú Văn lại nói: “Cảm tạ xong, mời đọc địa khế!”
Chú Lâm bước tới, khinh bỉ liếc chú Văn một cái rồi móc trong túi lấy ra một tờ địa khế khác, lớn giọng đọc trước mọi người:
“Trời cao vời vợi, đất dày mênh mông, mặt trời ngày ngày soi sườn đồi. Do trước nhân duyên, hái chè ở núi Nam, hái quả ở núi Bắc, tình cờ gặp được tiên nhân ban tặng ba chén rượu, như giấc mộng thoảng qua. Kính trời như cha, kính đất như mẹ, con cháu nhớ tổ tông mà chẳng biết bày tỏ thế nào, hôm nay xin mời địa sư Lâm Thu Thắng đến xem điểm, định một huyệt trên Long cát Hoàng, thế đất ngồi về hướng tây bắc núi Trác Mộc, phía đông đến Thanh Long, phía tây đến Bạch Hổ, phía nam đến Chu Tước, phía bắc đến Huyền Vũ, trung tâm là Ngũ Hành Thổ, bốn hướng rành mạch. Dùng chín vạn chín nghìn không trăm chín mươi quán bạc mua lại miếng đất vững chắc này, an táng cụ Chân Tuấn Ba. Từ khi an táng xong, để cho người quá cố quản lý, hai bên tre bầu làm hàng xóm, chim trời chiếu sáng, che chở cho con cháu thông minh tài giỏi, đỗ đạt cao, vinh hoa phú quý. Hỏi xem ai viết khế ước, hạc trắng bay lên trời ghi sổ; hỏi xem ai đọc khế ước, Long vương đọc xuống sông Dương Tử. Chỉ e thần mạnh tranh chiếm, chín trâu phá đất cũng không lưu giữ được.”
Phải công nhận, tờ địa khế này được soạn rất công phu, lối văn hoa mỹ hơn hẳn tờ địa khế khi khai quật trước đó, như một câu đồng d.a.o khó liệm. Hóa ra trong giới “đạo” cũng phải có chiêu trò lấy uy. Chú Lâm đọc say sưa, đầy cảm xúc, nếu cho đối phương một cặp kính, chắc nhiều người còn tưởng ông là phó giáo sư khoa Văn của một trường lớn.
Đọc xong, chú Lâm ném tờ địa khế vào chậu lửa cho cháy rụi, rồi quay sang bảo tôi với lão Dịch: “Lấy số đất ẩm lúc nãy hai đứa xúc từ mộ cũ rải vào huyệt mới đi, nhanh lên. Khi rắc thì đừng có quay lưng lại kẻo gặp xui xẻo.”
Tôi và lão Dịch làm theo lời dặn, không ngờ việc chôn cất lại lắm quy củ đến thế, ngay cả chuyện “đất” cũng có phép tắc riêng. Nhân tiện, để tôi nói sơ qua cho dễ hiểu một chút, cái gọi là “đất cũ lót huyệt mới”. Theo cách làm chuẩn, phải đào sâu thêm tám tấc ở chỗ đặt quan tài cũ, rồi dùng bao sạch gói phần đất đó mang đến huyệt mới. Làm vậy mới đảm bảo âm dương thông thuận, phúc họa rõ ràng. Còn nếu làm qua loa, hoặc để đất rơi vãi giữa đường bị người ta giẫm phải thì là điều đại kỵ, vì người ta tin rằng như thế là để người quá cố chịu cảnh “c.h.ế.t rồi vẫn bị d.a.o cắt chân”, tổn phúc cho con cháu.
Hiểu nôm na thì chẳng khác nào cụ cố dọn sang nhà mới mà không quen giường, phải đem “chiếc giường cũ” theo mới ngủ yên được. Nhưng mà đất trong huyệt mộ cũ giờ nhão nhoẹt như bùn, tôi với lão Dịch cũng không tiện đào nhiều, chỉ tiện tay bốc vài nắm rồi cho vào túi ni-lông mang đi.
Khi đổ hết bùn đất trong túi xuống huyệt mới, hai đứa vội lùi lại đứng sang một bên. Chú Văn lúc này đích thân ra tay, bày trò như đang diễn xiếc. Ông ấy đứng sát mép huyệt, lấy một tờ giấy vàng đặt xuống, vừa khéo phủ lên lớp đất bùn chúng tôi vừa rắc. Sau đó, ông ngoắc tôi lại, lấy trong ba lô của tôi ra một cái túi nhỏ, đổ lên giấy vàng một ít bột màu xám trắng.
Người khác chẳng hiểu đó là gì, nhưng tôi thì biết rõ, đó chính là nhựa thông trộn bột phốt pho. Lão thần côn đó nhanh tay quẹt một que diêm, ném vào tờ giấy. Lửa bén, phốt pho bốc cháy sáng rực, mùi nhựa thông lan tỏa khắp nơi. Đúng lúc ấy, chú Văn rút từ túi quần ra một đồng tiền đồng, làm động tác “Khuê Tinh đá đấu” rồi quát lớn:
“Đi!”
Đồng tiền xoay tít, rơi trúng giữa tờ giấy đang cháy, khiến đám người đứng xem xung quanh trầm trồ khen ngợi.
Thực ra, trò này cũng có tên gọi hẳn hoi, gọi là “hâm huyệt” hay “sưởi huyệt”, nghĩa là lấy lòng hiếu thảo của con cháu sưởi ấm mộ phần, trả ơn cha ông từng che chở. Cũng gọi là “hâm giếng”, để sinh khí tụ nhanh hơn, cầu cho con cháu sớm phát đạt. Nhưng nói thật, việc này chỉ mang tính tượng trưng thôi, cần gì phải đốt cháy phừng phừng như vậy, đúng là kiểu “cởi quần rồi mới đ.á.n.h rắm”, làm cho rườm rà mà chẳng thêm ích gì.
Làm xong mấy màn trình diễn đó, chú Văn liền bảo mấy người thợ khiêng quan tài lên thật cẩn thận, rồi từ từ hạ xuống huyệt. Con cháu trong nhà được gọi tới, mỗi người xúc một nắm đất đầu tiên thả xuống mộ, coi như làm tròn chữ hiếu. Sau đó, mọi người cùng nhau lấp đất, từng xẻng một, nhanh chóng vùi kín nắp quan.
Vì việc dời mộ lần này quá gấp, nên chỉ có thể làm một lễ an táng giản đơn. Ngay cả bia mộ cũng chưa kịp khắc, đành dùng tạm một tấm ván gỗ dựng thay, chờ sau này thuận tiện rồi sẽ sửa sang lại đàng hoàng, để người đã khuất có chỗ yên nghỉ tử tế.
Xong xuôi tất cả, trước mắt chúng tôi đã là một nấm mồ mới. Khi đó vẫn chưa tới giờ Ngọ ba khắc, tính ra mọi chuyện diễn ra khá suôn sẻ. Sau khi con cháu nhà họ Chân lạy tạ và đốt vàng mã xong, chúng tôi bắt đầu xuống núi. Tôi ngoái đầu nhìn lại gò đất mới đắp kia, trong lòng thầm cầu khấn trời phật phù hộ, mong “vận động viên lặn” nhiều năm này cuối cùng hãy yên ổn lên bờ, đừng gây thêm chuyện gì nữa.
Về tới nhà họ Chân, chủ nhà bày tiệc lớn chiêu đãi tất cả những ai đã giúp đỡ. Ông cụ Chân giờ hay lú lẫn, chẳng biết chuyện gì, chỉ tưởng bà con hàng xóm đến thăm, cười vui cả buổi, phấn chấn như đứa trẻ.
Tôi nhân lúc đi vệ sinh, tình cờ bắt gặp chú Văn đang nói chuyện riêng với dì Chân. Ông ấy bảo, việc sửa mộ nên làm càng sớm càng tốt, tốt nhất là ngay sáng mai, vì qua hai ngày nữa chúng tôi sẽ phải trở về rồi.
Nghe xong câu đó, trong lòng tôi lại bắt đầu khinh bỉ lão già này. Cái việc hóa giải Bát Diệu Sát vốn chỉ là trùng hợp, chú Văn chẳng hề biết nguyên do thật sự là gì. Có khi vẫn còn lo sợ “thợ lặn” kia biến thành xác sống, nên giờ chỉ mong mau chóng chuồn đi cho yên thân.
Haizz… lòng người thật khó lường, biết nói lý lẽ với ai đây? Nhìn bộ dạng của ông ấy, tôi chỉ biết cười khổ, lắc đầu rồi bỏ đi. Thực ra mấy hôm nay tôi đã thấy có điều gì đó không ổn, từ mối quan hệ mờ ám giữa chú Văn với nhà họ Chân, cho đến vài lần ông ấy cư xử khác hẳn thường ngày, tất cả đều khiến tôi khó lòng đoán được rốt cuộc đối phương đang giấu giếm điều gì. Giống như giữa tôi và chú Văn chỉ cách nhau một tấm giấy mỏng, nhìn thấy mà không xuyên qua được. Có đôi lúc, tôi thậm chí còn sinh ra ảo giác rằng lão già này biết đâu thật sự có chút bản lĩnh.
Nhưng đến giờ nhìn lại, mẹ kiếp, kẻ lừa đảo mãi mãi vẫn là kẻ lừa đảo, có nằm đệm bao nhiêu năm cũng không thể hóa thành thật được. Tôi chẳng buồn nghe thêm, quay người bước vào khu rừng nhỏ bên cạnh, tìm một gốc cây lớn để giải quyết nỗi buồn.
Giải quyết xong, tôi kéo khóa quần rồi đi ngược trở lại. Lúc ấy, trong núi bắt đầu nổi gió. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, bầu trời vẫn trong vắt, xanh như ngọc, nhưng mây trên cao lại trôi nhanh khác thường. Có lẽ… sắp đổi gió rồi.
