Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 164: Hung Tinh Bát Diệu Sát
Cập nhật lúc: 05/11/2025 07:11
Vì chiếc quan tài bị chôn dưới đất đã nhiều năm, lại bị đinh gỗ đóng chặt nên phần nắp và thân dính vào nhau như một khối liền. Tôi, lão Dịch cùng mấy thanh niên khỏe mạnh phải dùng hết sức bình sinh mới cạy được nó ra, rồi hì hục đẩy sang một bên.
“Rắc… rắc…” tiếng ma sát vang lên chói tai, cứ như có ai đang lấy móng tay cào lên mặt kính, nghe mà gai cả người. Quả không hổ là quan tài cổ chính hiệu, âm thanh phát ra cũng đáng ghét như chủ nhân của nó vậy.
Vừa rồi trên núi vẫn còn yên tĩnh, vậy mà ngay khi nắp quan tài dời khỏi, rừng cây xung quanh như nổ tung. Từng đàn chim đang trú ẩn trong tán lá bỗng hốt hoảng vỗ cánh bay tán loạn khắp bốn phương. Không ngờ trong khu rừng heo hút này lại có nhiều chim đến thế, trong đó tôi chỉ nhận ra hai loại: chim khách và quạ.
Tiếng chim khách kêu lanh lảnh “chích chích chích”, còn tiếng quạ thì khàn đặc “quạ… quạ…”. Hai âm thanh xen lẫn nhau, vang vọng giữa núi rừng nghe thật rợn người.
Cổ nhân có câu: “Thâm sơn lâm trung an cư điểu, như ngộ hung sát các tự phi” nghĩa là trong rừng sâu, chim chóc vốn yên lành trú ngụ, nhưng hễ gặp phải điềm dữ thì lập tức tán loạn bay đi.
Giờ đây, quan tài vừa mở đã khiến cả rừng chim hoảng loạn như vậy, không cần ai nói, tôi và lão Dịch cũng thấy lạnh sống lưng. Mẹ kiếp, thứ trong quan tài này phải hung tới cỡ nào mới gây ra cảnh tượng như trong phim kinh dị thế này chứ?
Buồn nôn hơn nữa là cái quan tài ấy chẳng khác nào một hộp cá ươn bị niêm kín suốt hơn nửa thế kỷ, vừa mở nắp ra, một luồng hơi ẩm nồng nặc pha lẫn mùi tanh tưởi, mục rữa lập tức bốc lên bay khắp nơi. Cách xa chừng mười mét mà vẫn ngửi thấy rõ mồn một.
Đám thợ phụ cùng mấy người phụ nữ nhà họ Chân vừa hít phải mùi ấy đã chịu không nổi, cúi gập người mà nôn thốc nôn tháo.
Quả thật quá kinh khủng, vừa thấy cảnh mở quan tài khiến cả đàn chim trong rừng bay loạn, họ càng khiếp đảm, hai chân run lẩy bẩy, mặt mày cắt không còn giọt máu. Người miền núi vốn tin chuyện tâm linh, vừa thấy điềm gở là sợ đến co quắp bắp chân, chỉ e thêm chút động tĩnh nữa là bỏ chạy thẳng xuống núi, chẳng thèm đòi tiền công gì nữa.
Tôi với lão Dịch cũng chẳng khá hơn. Khi vừa bật nắp quan tài, luồng khí tanh hôi ấy phả thẳng vào mặt, khiến mấy thanh niên khỏe mạnh đứng cạnh đều ôm bụng gập người nôn khan. Tôi cũng suýt theo chân họ. May mà sáng nay chưa bỏ gì vào bụng, chứ không thì cũng chẳng đỡ hơn là bao. Còn lão Dịch thì xui tận mạng, anh ta ăn nhiều nhất, bụng dạ lại yếu, giờ chỉ biết ôm bụng, khom người mà nôn đến ruột gan đảo lộn.
Nhưng điều khiến chúng tôi rùng mình thật sự không phải thứ mùi gây buồn nôn đó, mà là một cảm giác quen thuộc đến đáng sợ, vừa mở nắp quan tài ra là lập tức tràn đến.
Sát khí.
Đúng vậy, chính là sát khí!
Rõ ràng trong quan tài này thật sự đã xảy ra chuyện. Sát khí ấy mạnh đến mức kinh hồn, chưa bao giờ tôi gặp luồng khí dữ nào mãnh liệt đến vậy, cảm giác chẳng khác nào có ai cầm búa nện thẳng vào đầu, “ong” một tiếng, toàn thân run rẩy không sao khống chế nổi.
Trời đất chứng giám, trừ lần hồi đại học tôi gặp phải nữ quỷ áo vàng ra, từ đó đến nay chưa từng cảm nhận luồng sát khí nào khủng khiếp đến vậy. Nói như thế có lẽ chưa đủ, bởi hồi ở đại học là lần đầu tiên tôi tận mắt thấy quỷ, ấn tượng đậm đến nỗi khó quên, còn lần này, sát khí dữ dội gấp mấy lần. Trong ký ức của tôi, chỉ có loại “cực âm cực sát” đã hoàn toàn thành hình mới có thể mạnh đến thế. So với nó, cái gọi là “Ngũ Thông Thần” hay “Sát Thai” đều chỉ là trò trẻ con, chẳng đáng nhắc đến.
Chú Văn và chú Lâm thì chẳng cảm nhận được sát khí, chỉ bị mùi tử thi nồng nặc làm cho choáng váng. Tôi thấy họ bịt mũi, cúi xuống nhìn vào trong quan tài, sau đó sắc mặt cả hai chuyển sang tái mét. Đáng nói nhất là chú Văn, đôi mắt ti hí như hạt đậu xanh của ông lúc này lại trợn tròn, toát ra vẻ kinh hãi tột độ, không ngờ mắt ông già đó cũng có lúc sáng đến thế.
Tôi và lão Dịch dần thích ứng với mùi tử khí, cũng bịt mũi, khom người nhìn vào trong. Vừa nhìn, tim cả hai như thắt lại một nhịp, sắc mặt bỗng cứng đờ y như hai lão thần côn kia. Mắt lão Dịch vốn đã to, giờ trợn đến mức như sắp rơi ra khỏi hốc.
Bốn người chúng tôi đứng c.h.ế.t trân bên cạnh quan tài, chẳng khác nào mấy kẻ bị tai biến, chỉ biết đờ đẫn nhìn vào trong.
Chỉ thấy trong quan tài kia, nước đầy đến miệng, đặc sánh và đục ngầu như bể cá cảnh khổng lồ đã lâu không thay nước. Mùi tanh nồng nặc là từ thứ nước đó bốc ra. Càng kinh dị hơn nữa, t.h.i t.h.ể của cụ cố nhà họ Chân lại ngâm trong làn nước ấy, thế nhưng không hề mục nát, chỉ phồng rộp, trương phình lên. Nghĩ kỹ lại thì thấy chẳng hợp lý chút nào, cụ Chân được chôn cất đã bao nhiêu năm rồi, sao vẫn còn nguyên da thịt? Chẳng phải sớm đã hóa thành một bộ xương khô rồi sao?
Tôi và lão Dịch nhìn nhau, trong lòng cùng hiện lên một ý nghĩ: cương thi! Đúng vậy, tuyệt đối là cương thi thật sự, chân chính hơn cả trên phim!
Cụ cố nhà họ Chân ngâm mình trong cỗ quan tài ấy, t.h.i t.h.ể không hề thối rữa, nhưng làn da, cơ bắp đã đen sì, khô sạm chẳng còn giống người bình thường, cứ như được hun qua than. Tôi chợt nhớ tới lần xem chương trình khoa học trên kênh Trung ương 10, nói về những t.h.i t.h.ể cổ được bảo tồn hoàn hảo, da thịt vẫn căng bóng, khuôn mặt như còn sống. Khi đó tôi còn bán tín bán nghi, nhưng hôm nay thì tôi tin rồi. Ông cố này sống động chẳng khác gì một bài học giải phẫu trực tiếp, kinh hãi đến rùng mình!
Nước trong quan tài đục ngầu, sánh đặc, trông chẳng khác nào những bình thủy tinh to tướng đựng mẫu vật trong phòng thí nghiệm sinh học hồi chúng tôi còn đi học. Mà cụ Chân lại y hệt như một mẫu vật ngâm trong formol, lạnh lẽo và đáng sợ. Nếu nói cho hình tượng hơn, thì đúng là như một bình rượu t.h.u.ố.c ghê tởm, trong đó thay vì ngâm nhân sâm hay rắn, người ta lại thả nguyên một ông già vào ngâm!
Tôi nhớ hồi đại học, mấy thằng bạn hay cụng ly đùa: “Là nhân sâm thì phải ngâm rượu chứ!” Giờ nhìn cái “lão nhân sâm” này lềnh bềnh trong quan tài, tôi chỉ muốn bật khóc. Từ bé tới giờ chỉ thấy cương thi trong phim, nghe các cụ kể chuyện hù dọa, ai ngờ hôm nay lại thật sự có một cuộc hẹn với cương thi!
Vì lực nổi, nửa thân trên của cụ Chân nổi lên mặt nước, khẽ đung đưa theo làn sóng nhỏ vừa lắng xuống sau khi chúng tôi mở nắp quan tài. Nửa đầu của cụ nổi lên, lắc lư nhẹ. Tóc đã rụng hết, khuôn mặt chẳng còn phân biệt được đâu là mắt, đâu là mũi. Điều kỳ lạ nhất là từ mũi xuống đến cằm, toàn bộ phần thịt đều mục nát, chỉ còn hốc trống hoác. Nhìn xa xa, chẳng khác gì cụ đang há miệng thật to.
Đúng lúc tôi còn đang thắc mắc, lão Dịch bỗng hét lên một tiếng thất thanh: “C.h.ế.t tiệt! Âm thi!”
Âm thi? Tôi sững người, trong đầu lập tức hiện lên lời giải thích của cái tên này, cái từ ấy trong giới phong thủy nổi tiếng đến mức gần như không ai không biết. Nghĩ tới đó, tôi chỉ thấy lạnh toát cả người, thật khó mà tin nổi.
Trong giới địa lý phong thủy, “âm thi” được xem là loại t.h.i t.h.ể đáng sợ nhất, thuộc về một nhánh của cương thi, nhưng hung tàn và quái dị hơn rất nhiều. Thông thường, nó được hình thành do sai lệch long mạch hoặc biến động địa thế, khiến t.h.i t.h.ể hấp thu tà khí mà biến đổi, còn được gọi là “Bát Diệu Sát”.
Âm thi được chia làm hai loại. Một là thi khô, gọi là “Hận tính Bát Diệu Sát” — toàn thân khô quắt, không còn lấy một giọt nước. Hai là thi ướt, gọi là “Ác tính Bát Diệu Sát” — thân thể trương phồng, nước đọng trong người, da thịt vẫn còn đàn hồi như người sống. Khác với những cương thi thông thường, Bát Diệu Sát từng được ghi chép trong Tử Bất Ngữ: “Người sống có một hơi thở cuối, khi c.h.ế.t phải thở ra mới tắt. Nhưng có kẻ vì oán hận hoặc c.h.ế.t oan, hơi thở ấy nuốt ngược vào quá sâu, khí tụ trong thân không tan, bị giam trong quan tài, hóa thành tà vật.”
Cương thi bình thường là do được chôn trong “đất dưỡng thi”, lâu ngày xác không phân hủy, giữ lại một hơi âm khí mà dần dần biến thành. Còn Bát Diệu Sát thì khác, nó là kết quả ngẫu nhiên của những điều kiện phong thủy cực hiếm, nên xưa nay hầu như chẳng mấy khi xuất hiện. Từ sau ngày đất nước giải phóng đến giờ, cả nước mới chỉ ghi nhận được vài trường hợp, nhưng lần nào cũng kinh động bốn phương, khiến người ta khiếp đảm.
Dĩ nhiên, đến thời nay thì chuyện đó gần như không thể xảy ra nữa, việc hỏa táng bắt buộc đã cắt đứt hoàn toàn khả năng tạo ra loại tà thi này. Có lẽ thêm vài trăm năm nữa, âm thi và cương thi cũng sẽ giống như loài Dạ Hồ mà tôi từng gặp, dần dần biến mất khỏi thế gian, chỉ còn lại trong những trang sách cũ mà thôi.
Truyền thuyết về Bát Diệu Sát lan rộng khắp nơi không phải là không có lý do. Khác với cương thi chỉ gây hại khi “khởi thi” tức là khi xác c.h.ế.t sống lại, hút m.á.u người. Nhưng Bát Diệu Sát, bản thân nó đã là một phần của thế cục phong thủy, lấy t.h.i t.h.ể làm trận, lấy oán khí làm mắt trận. Thế cục đã hình thành, thi chính là tâm cục, mà hễ đã thành cục, mọi sinh linh quanh đó đều bị liên lụy.
Dù t.h.i t.h.ể chưa hề biến, tà khí của nó vẫn có thể gieo họa cho ba đời con cháu. Miệng nó há ra, chẳng khác nào một lời nguyền, chuyên khắc hậu nhân. Mỗi khi con cháu có kẻ c.h.ế.t yểu, t.h.i t.h.ể ấy sẽ thối rữa thêm một phần, bắt đầu từ miệng, rồi lan dần xuống dưới. Cho đến khi thân xác hoàn toàn mục nát, hoặc dòng họ tuyệt diệt, tà cục mới chịu yên.
Nhìn mức độ thối rữa ở phần miệng của “lão nhân sâm” trong quan tài, tôi đoán người con trai thứ ba nhà họ Chân hẳn là nạn nhân đầu tiên. Nghĩ đến đó, tôi chỉ muốn c.h.ử.i thề. Mẹ kiếp, hóa ra trên đời thật sự có “công nghệ cao” kiểu này à! Ngay cả Cửu Thúc còn chưa gặp qua Bát Diệu Sát, thế mà tôi – một thằng vô tích sự – lại đụng phải nó thật. Nếu có ngày gặp lại sư phụ mà kể chuyện này, chắc ông ấy cũng phải sợ c.h.ế.t khiếp!
Tôi sực tỉnh, chưa kịp nghĩ phải làm gì tiếp thì đã nghe thấy tiếng lão Dịch la lên, đám người nhà họ Chân đều nhận ra có chuyện chẳng lành. Nhưng không có chỉ thị của hai lão thần côn, bọn họ đâu dám hành động, chỉ biết quỳ rạp xuống đất, mặt mày hoảng hốt, chờ đợi.
Chú Lâm bỗng giơ tay, tát thẳng vào sau gáy lão Dịch một cái “bốp”, rồi quát lớn:
“Âm thi với chả âm quỷ cái quái gì! Nói nhăng nói cuội gì thế hả?!”
Lão Dịch ôm gáy, mặt mếu máo, lại lên cơn ngây ngô thường thấy, lí nhí nói:
“Thì… thì đúng là vậy mà…”
Lời còn chưa dứt, chú Lâm đã nổi giận, đạp thêm một cú vào mông, quát:
“Cút! Ra đường quên uống t.h.u.ố.c à? Nhìn thấy cháu còn phiền hơn thấy quỷ đó!”
Lão Dịch lại ăn thêm một cú nữa, lập tức câm như hến, không dám hó hé gì thêm. Anh ta chuồn tới đứng cạnh tôi, ánh mắt đầy lo lắng. Nhưng tôi lại không nghĩ giống vậy, chuyện ma quỷ vốn là thế, chưa biết thì sợ, biết rõ rồi lại thấy chẳng có gì đáng sợ cả. Tôi liếc Dịch Hân Tinh một cái ra hiệu, trong lòng thầm nhủ dù sao bây giờ cũng biết rõ "lão nhân sâm” này là thứ gì rồi. Mẹ kiếp, Bát Diệu Sát thì đã sao? Trong truyền thuyết nghe có vẻ ghê gớm thật, nhưng nếu truyền thuyết là thật, thì nó cũng chẳng làm gì được chúng tôi. Cùng lắm chỉ hại con cháu nhà họ Chân thôi, mà lại chưa hề thi biến, cũng chẳng thể bật dậy c.ắ.n người. Nói cho cùng, chỉ là một đống thịt c.h.ế.t, một đống thịt c.h.ế.t đầy sát khí.
Lúc này, chú Văn vẫn im thin thít, như đang suy tính gì đó. Một lúc sau, ông ấy quay phắt người lại, đổi giọng, trịnh trọng nói với mọi người:
“Cụ cố nhà các người nay đã tái kiến thiên nhật, đại cát đại lợi! Gia quyến mau quỳ xuống, dập đầu ba lạy để tạ ân trời đất!”
Người nhà họ Chân nghe xong, đâu dám không làm theo? Lập tức đồng loạt quỳ xuống, dập đầu liên hồi. Chú Văn lại tiếp lời, giọng càng lúc càng hùng hồn:
“Mọi người nghe tôi nói! Xưa nay vẫn có câu: ‘Lành gặp điềm lành, thiện có báo thiện.’ Hôm nay khi mở quan tài mà thấy linh khí, chính là phúc báo của tổ tiên.
Trong quan tài xuất hiện thứ nước trong như ngọc, đó chính là tiên thủy! Có được nước tiên trong quan, nghĩa là người đã khuất đã được siêu độ thành tiên, thoát tục mà bay lên thiên đạo! Đây quả là đại phúc của nhà họ Chân! Xin chúc mừng, chúc mừng!”
Nói xong, ông ấy còn chắp tay hướng về phía họ Chân, khom người thi lễ, ra hiệu cho mọi người tiến lên xem mặt người đã khuất. Bị những lời của chú Văn mê hoặc, ai nấy đều tò mò, rối rít chen tới xem người "thành tiên” trông ra sao.
Còn tôi với lão Dịch thì chỉ biết nhìn nhau cười khổ. Mẹ kiếp, đúng là lão thần côn chính hiệu! Không biết một chữ bùa chú, chẳng hiểu ma quỷ là gì, nhưng nói dối thì như hát, phét lác như thần. Cái nước thối rữa ngâm xác kia mà bị nói cho biến tướng thành “tiên thủy", bốc phét cứ như thật, khiến cả đám người nghe mà sướng rơn cả mặt.
Người nhà họ Chân cùng đám thợ phụ đều bịt mũi tiến lên xem, nhưng vừa liếc qua cảnh tượng trong quan tài liền hồn bay phách tán, sợ đến mặt mày trắng bệch. Một số kẻ gan nhỏ hơn còn vội chạy ra xa mà nôn thốc nôn tháo. Chú Văn và chú Lâm vẫn giữ vẻ điềm đạm của “cao nhân”, dáng dấp đạo mạo chẳng khác gì những thầy pháp trên phim. Trong mắt những người nông dân quê mùa thật thà này, hai “ông thầy” từ thành phố xuống đều là người đáng kính, vì họ biết “giao tiếp với thần linh và ma quỷ”. Thế nên chẳng ai dám hoài nghi lời chú Văn nói cả.
Thấy mọi người đều tin, thậm chí còn có vài người vừa bịt mũi vừa chúc mừng hai anh em nhà họ Chân, chú Văn càng được đà nói tiếp:
“Mặt trời đã lên cao rồi, chúng ta mau đưa cụ cố nhà họ Chân, à không, phải gọi là Chân lão tiên nhân đến nơi an nghỉ mới thôi! Chân lão tiên nhân linh thiêng trên trời ắt sẽ phù hộ cho các vị, đây chính là một việc tích đức, công đức vô lượng đấy!”
Dân quê vốn mê tín, dù thời buổi này khoa học đã tiến xa, nhưng ở những vùng hẻo lánh như thế này, tín ngưỡng thần quỷ vẫn ăn sâu vào máu. Nghe nói có “phúc báo” và “tích đức”, ai nấy đều gật đầu hớn hở. Thế là theo chỉ dẫn của chú Văn, họ lấy bát múc nước trong quan tài ra đổ đi.
Chú Lâm cũng chẳng rảnh rỗi, ông kéo tôi và lão Dịch ra một góc, nhỏ giọng nói:
“Hai đứa chắc cũng biết cái lão già đó vừa rồi toàn nói nhảm thôi chứ gì?”
Tôi và lão Dịch không đáp. Chú Lâm lại nói tiếp:
“Thông minh lên chút, lần này có chút tà khí thật đấy. Chờ vài hôm nữa nhận được tiền công thì chúng ta chuồn ngay.”
Nói xong, chú Lâm quay lại chỗ đám người, lặng lẽ quan sát họ múc nước ra khỏi quan tài. Tôi và lão Dịch nhìn nhau, chẳng hiểu tại sao hai lão thần côn này lại chỉ nhắc riêng chúng tôi mà không chịu nói thật cho nhà họ Chân biết chuyện nghiêm trọng đến mức nào.
Thấy đã gần bảy giờ, nước trong quan tài cũng gần cạn, để tránh khiến mọi người sợ hãi, chú Văn lấy một tấm vải trắng phủ lên mặt xác c.h.ế.t, dĩ nhiên cũng che luôn cả cái miệng há to kia.
Mặc dù mùi hôi thối vẫn nồng nặc, nhưng so với lúc đầu đã đỡ hơn nhiều. Mọi người vốn là dân quê, làm ruộng quen với bùn đất, nên cũng chẳng oán than gì. Tôi đứng bên cạnh, đang nghĩ không biết vụ này có thể êm xuôi kết thúc được không, bỗng nghe tiếng lão Dịch gọi từ phía sau.
Tôi quay đầu lại, thấy anh ta đang ngồi xổm cạnh nắp quan tài mà lúc nãy chúng tôi đã gỡ xuống, vẻ mặt đầy kinh ngạc, dường như phát hiện ra điều gì đó.
