Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 204: Chuyện Cũ Của Ba Người 3
Cập nhật lúc: 02/12/2025 07:01
Lúc này đã hơn mười giờ đêm, người đi dạo ven đường hầu như chẳng còn mấy ai. Ngược lại, những nhóm đàn ông say khướt tụ ba tụ năm lại bắt đầu nhiều hơn. Cuộc sống về đêm của thành phố chỉ mới chính thức khởi động. Ở các tiệm mát-xa, từng cô gái trang điểm đậm, mặc mỏng dính ngáp dài bước ra cửa hút thuốc. Nếu ví họ như mèo thì đúng thật chẳng sai chút nào, ban ngày ngủ, ban đêm mới tỉnh.
Thực ra tôi khá tôn trọng họ, thật đấy, không phải nói cho vui. Ít nhất họ còn mang lại niềm vui cho những người đàn ông ở tầng đáy xã hội, còn hơn đám “chuyên gia – giáo sư” suốt ngày chỉ biết c.h.é.m gió. Nhiều khi tôi tự hỏi, mọi thứ hình như đều liên quan với nhau cả. Chính đám chuyên gia ấy hại người, ngày ngày bóp c.h.ế.t không biết bao nhiêu năng lực tư duy của thanh niên, khiến nhiều đứa lớn lên chẳng làm nên trò trống gì, cuối cùng chỉ có thể bước vào con đường này. Rồi cũng chính những vị “chuyên gia – giáo sư” đó lại đến tìm họ… Nói thật chứ, bọn họ đúng là chẳng bao giờ làm gì mà không có lợi cho bản thân. Vì hạnh phúc của mình mà đóng vai thánh phán, tổ sư quạt mo. Mẹ nó chứ.
Đối diện quán nướng chúng tôi đang ngồi là một tiệm mát-xa. Đúng lúc đó có một cô em trẻ măng, mặc mỗi cái áo hở rốn bước ra ngoài. Tôi với lão Dịch nhìn thấy liền lập tức dán mắt vào, vừa nóng bỏng vừa… trong sáng. Nói thật nhé, cuộc đời ba đứa tôi — những kẻ được gọi là truyền nhân Tam Thanh — phải nói như mấy tên mới xuống núi từ Thiếu Lâm tự vậy, toàn là những thằng tội nghiệp, còn nguyên như lúc mới đẻ. Sách vở bảo người tu đạo phải giữ thân đồng tử, chứ thật ra chẳng liên quan mẹ gì. Chúng tôi giữ là vì… chẳng có ai cho phá thôi.
Lão Dịch còn tệ hơn tôi nhiều. Không có gì lạ khi gần đây tôi thấy đầu anh ta hình như mỗi ngày một to thêm, hóa ra là nhiều ý nghĩ đen tối quá nên nó phình ra. Công nhận cũng tội, hiếm hoi lắm Dịch Hân Tinh mới thích một cô gái, không ngờ lại hóa ra là con gái nuôi của tên Viên Mai. Đúng là tạo hóa trêu ngươi, không biết lão Dịch sẽ còn bị “trêu” mấy lần nữa.
Tôi đập nhẹ vai lão Dịch, bảo anh ta lau nước miếng đi, rồi hỏi tiếp: “Đừng ngẩn người nữa. Tới lượt anh rồi đấy. Kể đi cho anh em nghe.”
Sau khi uống vào mấy chén, Thạch Đầu cũng bắt đầu nói nhiều hơn, bèn quay sang lão Dịch rồi bảo: “Đúng đấy, lão Dịch, kể đi. Cha mẹ anh là người thế nào?”
Lão Dịch nghe bọn tôi hỏi vậy thì nghiêng đầu nghĩ một lúc, đáp: “Cha mẹ tôi à? Hình như tôi… chẳng còn chút ấn tượng nào nữa.”
“Hả?” Tôi lập tức nghiêm mặt hỏi: “Lão Dịch, lần trước anh có nói cha mẹ anh…”
Lão Dịch gật đầu, khóe miệng khẽ nhếch lên thành một nụ cười khổ: “Đúng vậy. Họ đều mất cả rồi.”
Trong khoảnh khắc, không khí xung quanh như lặng hẳn. Thạch Đầu và tôi đều nghẹn lời, chỉ biết nhìn lão Dịch. Lúc này trên mặt anh ta đã không còn cái kiểu cười ngớ ngẩn thường ngày nữa. Dịch Hân Tinh hơi ngẫm nghĩ, rồi bắt đầu kể về chuyện gia đình mình.
Trước giờ tôi từng nói rồi, lão Dịch sinh ra trong một gia tộc thầy pháp hệ Bạch phái, nhiều đời đều “ăn cơm âm phủ” mà lớn. Bởi vậy mà chuyện “ngũ tệ tam khuyết” ở nhà anh ta là quá đỗi bình thường. Như ông nội lão Dịch chẳng hạn, mang mệnh khuyết một phần, nên c.h.ế.t rất sớm. Cha của lão Dịch — Dịch Tranh — là con một. Sau khi ông nội mất, chỉ còn bà nội gồng gánh chăm sóc, nuôi Dịch Tranh lớn lên.
Khi trưởng thành, Dịch Tranh nối nghiệp gia tộc, tiếp nhận nghề tổ truyền, trong đó bao gồm cả cuốn “Tam Thanh Bố Y Thiên Thư”.
Nhưng những năm ấy lại đúng vào thời điểm phong trào “lên núi xuống làng, cải tạo bản thân” diễn ra rầm rộ. Khắp nơi treo khẩu hiệu: “Một vạn năm quá dài, chỉ tranh thủ từng ngày; trời đất bao la rèn luyện bản thân trung kiên đỏ thắm.” Thanh niên thành phố phần lớn đều phải đưa về nông thôn lao động cải tạo.
Nói đến đây, tôi không nhịn được phải cảm thán: xã hội ở thời nào cũng vậy thôi, luôn có kẽ hở cho người ta chui lọt. Người phải chịu khổ bao giờ cũng là dân nghèo. Chứ đã bao giờ nghe nói con trai của huyện trưởng, thị trưởng bị đưa đi “lao động cải tạo” bao giờ chưa?
Đó chính là “tục lệ hài hòa” của chúng ta, cho dù trong những năm tháng ấy cũng không thể tránh được. Nhà lão Dịch vừa không tiền vừa không quan hệ, trong nhà chỉ còn mỗi bà mẹ già, nhưng cũng chẳng thoát nổi số phận phải xuống nông thôn tham gia lao động. Không bao lâu sau khi Dịch Tranh xuống xã, bà nội của lão Dịch vì tức giận mà phát bệnh, rồi qua đời, đi theo ông nội anh ta.
Thật đáng thương cho cha của lão Dịch, ngay cả khi mẹ mất mà cũng không kịp về nhìn mặt lần cuối. Nhưng lần xuống nông thôn này cũng không phải hoàn toàn vô ích. Ở cùng một điểm thanh niên, Dịch Tranh gặp mẹ của lão Dịch, hai người nảy sinh tình cảm. Dưới sự “chứng giám” của tư tưởng chủ đạo thời bấy giờ, đôi trai gái hữu tình cũng trở thành vợ chồng.
Vài năm sau, khi phong trào trí thức trẻ về thành phố bắt đầu, Dịch Tranh vốn cao lớn nên được phân về một nhà máy dệt làm bảo vệ, còn vợ thì làm công nhân nữ trong chính nhà máy ấy. Hai người, một bảo vệ – một thợ dệt, coi như cùng chung sức xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nhiều năm sau nữa, họ có nhà riêng, sinh ra Dịch Hân Tinh. Lão Dịch khi đó còn nhỏ, mà trong nhà lại không có họ hàng nào trông giúp, nên mẹ đành cõng anh ta sau lưng mang theo tới nhà máy làm việc. Việc này thời ấy rất bình thường. May mà Dịch Tranh cũng làm trong cùng nhà máy, có thể giúp trông con. Vì vậy, trước năm năm tuổi, lão Dịch cứ thế mà lớn lên.
Nói đến đây, Dịch Hân Tinh dừng lại uống một hớp bia, rồi chống cằm, ngậm điếu thuốc, trầm ngâm một lúc mới nói với hai chúng tôi: “Trong trí nhớ của tôi… mơ hồ vẫn còn cảnh bố cho tôi cưỡi trên vai, rồi nắm tay mẹ cùng nhau tan ca về nhà. Ngoài chuyện đó ra thì chẳng nhớ được gì nhiều nữa.”
Mấy câu đối phương kể nghe có vẻ nhẹ nhàng, nhưng tôi lại nghe ra một nỗi buồn mơ hồ trong đó. Không rõ vì sao. Tôi cũng khó mà hỏi thêm, chỉ đành im lặng chờ anh ta kể tiếp những chuyện xảy ra sau đó.
Lão Dịch nghĩ ngợi một lúc rồi nói: “Có lẽ đó là vào năm tôi bảy tuổi. Khi ấy xảy ra một chuyện cho đến giờ tôi vẫn không thể quên được. Ngay cả những ký ức về cha mẹ tôi, cũng đều từ sự việc đó mà ra.”
Lão Dịch kể rằng đầu óc mình rất nhanh nhạy, học cái gì là biết cái đó. Không học mẫu giáo mà vào thẳng tiểu học. Nhưng tuy đầu óc lanh lợi, anh ta lại không giỏi giao tiếp, vì thế cũng giống Thạch Quyết Minh, thường bị người ta bắt nạt. Nhưng có lẽ vì tính tình vốn hiền lành, người ta trêu cũng không giận, bắt nạt cũng không tức, nên tính cách lạc quan đó vẫn khiến anh ta khá được lòng bạn bè.
Lúc nhỏ, lão Dịch đã đọc thuộc rất nhiều sách tổ tiên để lại, trong đó dĩ nhiên có cả cuốn Tam Thanh Thư. Nhà họ Dịch có gia huấn: mỗi đời phải có một đệ t.ử Bạch phái đứng ra cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Dù Dịch Tranh không muốn con trai mình phải chịu vận “ngũ tệ tam khuyết", nhưng gia huấn không thể trái. Ông đành để cho đứa con còn nhỏ là Dịch Hân Tinh tự nghiên cứu. Không ngờ lão Dịch lại có thiên tư phi phàm.
Cho đến một ngày, khi mới bảy tuổi, anh ta đã tự mình chế tạo được “Nhị Thập Tứ Chu Thông Minh Đăng” — chiếc đèn khắc đầy trận pháp phức tạp, theo đúng ghi chép trong chương “Kỳ Môn Tạo Vật”. Khi đó, Dịch Tranh mới nhận ra con mình tư chất hơn người. Ông nghĩ đã dấn thân vào con đường này rồi thì không nên để mặc, chi bằng dạy bài bản. Biết đâu sau này nó tạo được nghiệp lớn. Thế là ông bắt đầu truyền hết những gì mình học cho con, dạy phương pháp nhập đạo đúng đắn, đồng thời kể lại các câu chuyện tổ tiên nhà họ Dịch hàng đời trừ yêu hàng ma.
Thời chúng tôi còn nhỏ, tivi đã rất phổ biến. Như người ta vẫn nói: có tivi thì có anh hùng. Đó vừa là phương tiện truyền bá, vừa là cách gieo vào trẻ nhỏ một niềm tin về chính nghĩa. Khi ấy, lão Dịch biết được rằng trên đời còn tồn tại thứ học vấn kỳ diệu ấy, liền say mê ngay. Thêm vào đó, anh ta xem rất nhiều phim xác sống trên tivi, những đạo trưởng trừ tà trong đó chẳng khác nào những anh hùng rực rỡ.
Nghĩ thử xem, tuổi thơ ai chẳng có một giấc mơ anh hùng? Thế nên lúc ấy, ước mơ của lão Dịch chính là lớn lên trở thành một đạo trưởng diệt ma, sống c.h.ế.t đối đầu với bọn xác sống.
Nghe đối phương kể đến đây, một nửa khuôn mặt tôi không kìm được mà nở ra nụ cười hiểu ý. Mẹ kiếp, đây chính là khoảng cách giữa ước mơ thuở nhỏ và hiện thực lúc trưởng thành. Thật ra, ước mơ hồi bé của lão Dịch đã sớm trở thành sự thật rồi, vì mới trước đó không lâu chúng tôi vừa liều mạng sống c.h.ế.t với một lão thợ lặn ma quái còn gì. Chỉ có điều, có lẽ đến nằm mơ anh ta cũng không ngờ rằng chính ước mơ năm xưa của mình lại khiến bản thân buồn nôn như vậy.
Dịch Hân Tinh kể đến đây, nét mặt dần trở nên gượng gạo. Anh ta khẽ cười khổ, rồi tiếp tục nói với chúng tôi: “Tôi thật không ngờ, cái ước mơ đó lại ảnh hưởng đến cả cuộc đời tôi.”
Lão Dịch nói tiếp. Kể từ khi có thể chế tạo được hạc giấy vàng, anh ta liền say mê điên cuồng với các thuật Kỳ Môn, ngày nào cũng nghĩ không biết bao giờ mình mới gặp được một con quỷ để có thể tung hoành một phen. Thật ra kiểu suy nghĩ đó tôi cũng từng có. Nhưng sau khi thật sự nhìn thấy quỷ rồi, tôi lập tức đổi ý. Dĩ nhiên, lão Dịch cũng vậy. Chẳng qua hồi đó còn nhỏ, đầu óc lại ngơ ngơ nên làm sao nghĩ được nhiều đến thế?
Thế là mỗi ngày đi học rồi tan học, anh ta đều đảo mắt khắp nơi tìm những “yêu ma quỷ quái” mà mình tưởng tượng. Mà trớ trêu thay, có một ngày anh ta gặp thật. Hôm đó tan học về thì đúng lúc nhà ai đó đang làm đám tang. Vì lão Dịch vốn nghịch ngợm, chẳng hề sợ c.h.ế.t chóc, lại còn thấy đây đúng là cơ hội tốt để “gặp quỷ”.
Anh ta phấn khởi chạy thẳng về nhà, nhưng không dám kể chuyện ấy cho người lớn biết. Lão Dịch chỉ lôi từ dưới gầm giường ra cái đèn xanh nhỏ mình từng làm trước đó. Cha anh ta từng nói: sau khi con người c.h.ế.t đi, linh hồn sẽ rơi vào trạng thái mờ mịt, rồi men theo Âm Thị mà đi về địa phủ. Nhưng như câu “pháp lý thông tình”, sau khi xuống âm gian, đến ngày thứ bảy, linh hồn sẽ được một ngày nghỉ để quay về thăm nhà lần cuối. Đó chính là “đầu thất”, còn gọi là “hồi sát” hoặc “hồi dương”.
Sách cổ viết rất rõ: trước khi hồn phách trở lại, người nhà phải chuẩn bị sẵn một bữa cơm cho người đã mất, sau đó phải lập tức tránh đi, tốt nhất là đi ngủ, nếu không ngủ được thì phải chui vào chăn nằm im. Nếu để linh hồn thấy được người thân, nó sẽ lưu luyến, ảnh hưởng đến việc đầu t.h.a.i chuyển thế.
Thế là lão Dịch khi ấy quyết tâm phải nhìn thử xem ma quỷ thật sự trông như thế nào vào ngày cúng thất tuần đó. Anh ta ôm trọn sự háo hức và mong đợi suốt một tuần lễ. Đến đêm ngày thứ bảy, đợi cha mẹ ngủ say, bèn len lén mang chiếc đèn xanh nhỏ ra ngoài rồi trốn xuống tầng dưới.
Dùng giọng non nớt niệm khai nhãn, lão Dịch trốn trong hành lang nhà có người mất, hồi hộp chờ đợi linh hồn trở về vào “đầu thất”. Khi đó Dịch Hân Tinh chỉ là một đứa trẻ, đơn thuần tò mò về những chuyện như vậy, căn bản không biết sẽ có hậu quả gì. Càng không ngờ rằng hành động ngu ngốc ấy lại gián tiếp ảnh hưởng đến cả cuộc đời sau này của mình.
