Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 52: Vài Ngày Cuối Cùng Của Đời Sinh Viên
Cập nhật lúc: 13/09/2025 16:08
Cái gọi là “cảm lạnh mang tên cô đơn” có lẽ chính là một thứ bệnh của tuổi trẻ. Không biết tôi bây giờ có còn gọi là trẻ nữa không, nhưng thực sự tôi thèm bệnh đến phát điên rồi.
Ngày mai là hạn nộp luận văn, vậy mà tôi vẫn chưa viết xong. Giờ chỉ còn biết cầu mong mình đổ bệnh thật nặng để có cớ mà xin Lưu Minh Minh hoãn cho thêm hai ngày.
Dù có chạy được mùng một cũng chẳng thoát được ngày rằm, nhưng ít ra cũng coi như một cách kéo dài thời gian. Tranh thủ thêm chút, để khỏi phải trắng đêm cày ra một bài luận nhảm nhí. Tôi ngồi trước cái máy tính trong căn phòng thuê, mồ hôi túa ra, vừa gõ chữ vừa chửi thầm: luận văn tốt nghiệp đúng là thứ chó má, toàn mấy đề tài vô bổ, thế mà lại bắt ép phải nặn ra hai vạn chữ thì mới qua cửa. Đây rõ ràng là hình thức chủ nghĩa, mà hình thức chủ nghĩa thì đúng là hại người không ít.
Thời gian đúng là chẳng cho ai gian lận, mới đó mà đã sang học kỳ hai năm ba. Giờ thì hầu như chẳng còn phải đi học, bạn bè cùng khóa đều bắt đầu rục rịch tìm việc, tôi cũng không ngoại lệ.
Nói thật, đến giờ tôi chưa viết được luận văn cũng là có lý do. Bởi dạo này tôi bận phát điên. Tốt nghiệp đồng nghĩa với việc phải rời ký túc xá, nhưng tôi lại thuộc loại “ba không”: không tiền, không cửa, không chỗ. Muốn tự thuê phòng thì chẳng kham nổi, đành phải tìm người chung phòng trọ.
May sao, Bào Long và bạn gái cậu ta cũng đang tìm nhà, thế là tôi mặt dày xin ké, cùng nhau thuê căn hộ hai ngủ một khách. Bào Kim Long quả thật là thằng bạn có nghĩa khí, không thuộc loại sợ vợ. Tôi từng thấy vợ nó cầm cây lau nhà phang tới tấp, thế mà nó vẫn đứng im không nhúc nhích.
Sau này uống rượu, cậu ta mới bảo: càng động thì càng bị đánh đau, nên tốt nhất cứ đứng yên. Quả là kinh nghiệm xương máu! Nhìn cảnh thằng bạn phải trốn vào nhà vệ sinh để hút thuốc, tôi lại thấy độc thân cũng không đến nỗi tệ.
Dù vợ cậu ta có dữ thật, nhưng quan hệ giữa chúng tôi vẫn luôn tốt đẹp. Thêm nữa, tôi lại biết nấu ăn, coi như có chút bản lĩnh nên vợ cậu ta cũng đồng ý cho tôi góp mặt thuê chung nhà.
Mấy hôm nay mải lo chuyện nhà cửa nên việc viết luận văn bị trì hoãn. Hôm nay cuối cùng cũng dọn khỏi ký túc, sắp xếp ổn thỏa căn hộ thuê mới, đã gần mười giờ tối. Cả ba đứa đều mệt rã rời, ăn qua loa chút đồ khuya rồi ai nấy về phòng mình ngủ luôn.
Hai người bọn họ thì yên ổn rồi, nhưng tôi lại chợt nhớ tới cái luận văn c.h.ế.t tiệt kia. Không còn cách nào khác, đành phải gắng gượng mở chiếc laptop cũ kỹ quý báu của mình ra, lên mạng tìm mấy thứ tài liệu vớ vẩn chẳng mấy bổ ích, rồi cố sống cố c.h.ế.t nhét vào trong luận văn cho đủ số chữ. Trong đầu toàn là những câu chửi rủa cái kẻ đã phát minh ra thứ gọi là “luận văn tốt nghiệp”.
Nghĩ lại thì, ba năm đại học của tôi sắp trôi qua, mà cái tôi học được thì ít ỏi đến đáng thương. Môn chuyên ngành chẳng nắm vững bao nhiêu, ngược lại “Tam Thanh Thư” thì tôi lại hiểu kha khá.
Bởi từ sau chuyến đi hồ Kính Bạc, tối nào trước khi ngủ tôi cũng nghiền ngẫm “Tam Thanh Thư”, hơn nữa mỗi khi đến rằm, tôi đều dày mặt kéo Cửu Thúc kể cho mình nghe mấy chuyện thần ma quỷ quái. Thế nên bây giờ tuy không dám nói là có thể sánh với Lưu tiên sinh ngày trước, nhưng nếu gặp lại mấy nhân vật giống như Ngũ Thông thần thì tôi cũng chẳng cần tốn nhiều sức để đối phó nữa.
Nhưng tất cả đều là “kỹ nghệ g.i.ế.c rồng” thôi, hoàn toàn chẳng thể dùng để mưu sinh. Phải biết rằng tình cảnh của tôi bây giờ nguy hiểm lắm, vừa tốt nghiệp đã đối diện với thất nghiệp, tìm không được việc thì còn mặt mũi nào về quê gặp bà con lối xóm nữa?
Haiz, nghĩ đến chuyện này là tôi lại bực mình. Nghĩ mà xem, tôi cũng từng trải qua cảnh vào sinh ra tử, vậy mà giờ lại bị mấy chuyện lặt vặt thế này làm cho rối tung rối mù. Nhưng tức thì cũng chỉ tự mình chịu. Tôi châm một điếu thuốc, đành nhận mệnh, tiếp tục gõ chữ, cái thứ hình thức chủ nghĩa đáng chết.
Gần bốn giờ sáng, cuối cùng cũng gõ xong một bài luận văn ra dáng quy củ. Tôi thở dài một hơi, lúc này mới hiểu thế nào là cảm giác “hai tiếng đồng hồ nặn ra sáu chữ”. Viết lách quả thực không phải việc cho người thường làm, quá hao tổn não lực.
Kiệt sức, tôi chỉnh lại đồng hồ báo thức, nhanh chóng cởi bỏ quần áo, rồi nhào thẳng vào chiếc chăn mê hồn của mình.
Có vẻ như đã thành thói quen, giờ chỉ cần tôi nghĩ đến chuyện ngủ là lập tức bước vào cảnh giới trong “Tam Thanh Thư”, trong đầu hiện lên núi non sông ngòi, chim chóc thú rừng. Quả đúng là: “Ngàn ngọn núi mở ra như mũi kích, vạn trượng núi dựng như bức bình phong. Nắng chiếu mây tía khóa màn xanh, mưa tạnh màu ngọc lại đượm lạnh. Dây leo quấn lấy cây già, bến cũ vẽ nên lộ trình tịch mịch. Kỳ hoa dị thảo, trúc thẳng tùng cao.”
Không biết tự lúc nào, tôi đã chìm vào giấc ngủ. Khi đồng hồ báo thức réo thì đã là chín giờ sáng. Tôi hốt hoảng bật dậy, Bào Kim Long và vợ vẫn chưa rời giường. Tôi vội vã rửa mặt đánh răng qua loa, rồi ra ngoài bắt xe buýt đến trường. Xe buýt buổi sáng ở Cáp Nhĩ Tân đông nghẹt, may mà tôi còn trẻ khỏe, sau khi xe chạy được hai bến thì nhanh tay chiếm được một chỗ ngồi. Nghĩ rằng đến trường chắc còn mấy bến nữa, tôi liền nhắm mắt lại chợp mắt một lát. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, chưa ngồi được bao lâu, xe lại dừng, có một người phụ nữ bế con nhỏ bước lên.
Trông người phụ nữ kia còn khá trẻ, hình như chưa tới ba mươi. Thật khổ, bế con nhỏ mà còn phải chen chúc trên xe buýt. Nhưng lại chẳng ai nhường chỗ cho. Tôi nghĩ bụng, dù sao người ta cũng vất vả, nhất là lỡ va chạm vào đứa bé thì phiền toái lắm. Còn tôi là thanh niên trai tráng, đứng thêm một lúc cũng chẳng c.h.ế.t ai. Thế nên tôi vội vàng đứng dậy, nhường chỗ cho chị ấy.
Chị ngồi xuống rồi, quay sang nói một tiếng cảm ơn. Tôi chỉ cười đáp lại, vì xung quanh chật chội nên không tiện động đậy, bèn nắm lấy tay vịn của xe buýt, đứng ngay cạnh hai mẹ con.
Đứa bé trai trong lòng chị trông rất kháu khỉnh, chừng bốn, năm tuổi, khuôn mặt bụ bẫm, đôi mắt to sáng ngời. Lúc này thằng nhóc đang ôm một cái túi giấy đựng hai chiếc bánh bao to, say sưa cắn từng miếng. Tôi nhìn nó ăn ngon lành thế, bỗng nhớ ra mình còn chưa kịp ăn sáng. Mùi bánh nóng hổi thơm phức từ tay nó không chệch đi đâu, cứ chui thẳng vào mũi tôi, làm con sâu thèm ăn trong bụng cồn cào ngứa ngáy.
Càng cố nghĩ là không đói thì càng đói, tôi nhìn nó vừa nhồm nhoàm vừa nhai tóp tép, trong bụng thì thầm: Này tiểu quỷ, ăn thì cứ ăn, nhưng làm ơn đừng chóp chép nữa, anh đây sắp thèm c.h.ế.t mất rồi.
Ngay lúc tôi định phân tán sự chú ý, chợt phát hiện thằng nhóc này có gì đó không ổn. Cụ thể là chỗ nào thì tôi chưa nói được ngay, chỉ thấy trên chân mày nó vương một luồng khí đen.
Mà giờ tôi cũng xem như có chút đạo hạnh. Người ta thường nói, nếu giữa chân mày có hắc khí, đa phần chẳng phải chuyện lành: hoặc là dương hỏa suy yếu, hoặc là bị chuyện tà ác quấn thân. Thế nhưng một đứa trẻ nhỏ như vậy, vốn đang ở độ tuổi dương khí thuần khiết nhất, lẽ ra tà khí không thể nào đến gần. Sao lại có hắc khí hiện ra được?
Chẳng lẽ tôi hoa mắt? Tôi đang định nhìn kỹ lại thì xe buýt vừa hay đến trạm của mình, đành mang theo nỗi nghi hoặc mà xuống xe.
Nhớ tới cảnh thằng nhóc ăn bánh ngon lành, tôi cũng ghé vào một quán bánh bao Thang Bào Nam Kinh mua một xửng, vừa đi vừa ăn. Trong đầu nghĩ, chắc mình nhìn nhầm thôi.
Thôi, tổ tiên mất còn chưa kịp khóc, tôi đâu cần phải đi khóc mồ hoang chi cho mệt. Nghĩ vậy, tôi vừa ăn bánh vừa đi vào một tiệm photocopy, lấy USB ra nhờ ông chủ in bài luận văn tốt nghiệp. Có xấp luận văn trên tay, tôi mới vào trường.
Nói thật, cũng đã lâu rồi tôi không gặp Lưu Minh Minh. Bước vào phòng làm việc của anh ta, tôi thấy người này đang cắm cúi chơi “Đấu Địa Chủ” trên máy tính. Hình như Lưu Minh Minh cũng có ý định nhảy việc, dù sao ngôi trường này quá xuống cấp, anh ta dự tính tiễn xong khóa chúng tôi thì đi luôn.
Hai anh em trò chuyện đôi ba câu, sau đó tôi đưa bài luận văn ra. Lưu Minh Minh hỏi tôi dạo này làm gì, tôi đáp, chẳng làm gì cả, lang thang thôi.
Anh ta liền nói:
“Lang thang suốt ba năm, cũng đủ rồi nhỉ. Gần đây có tìm việc chưa?”
Tôi thầm nghĩ, mình cũng không muốn cứ thế mà lang thang, nhưng kiếm việc đâu có dễ dàng thế. Tôi đáp: “Ngày mai em sẽ ra chợ lao động dạo một vòng. À, lớp mình có bao nhiêu người tìm được việc rồi, đã đi làm hết chưa?”
Lưu Minh Minh chống chân lên ghế, rút một điếu thuốc nhỏ, liếc tôi rồi nói: “Cũng chừng một nửa đấy. Giờ mọi người chạy đi làm văn phòng hết rồi, cậu cũng phải nắm chặt cơ hội, tuổi đã không còn trẻ, nên lo cho đàng hoàng một chút.”
Tôi hiểu Lưu Minh Minh tuy mồm miệng lắm lời, nhưng thật lòng rất tốt bụng, đối phương cũng lo cho tôi. Nhưng tìm việc không phải chuyện một sớm một chiều; hơn nữa với trình độ của tôi, còn cần nhiều may mắn lắm mới có người nhận. Nghĩ tới đó, lòng tôi lại rộn lên nỗi lo: tầm nào mình mới có vận may đây?
Dẫu vậy, không thể để bạn bè coi thường, tôi đứng dậy đáp: “Biết rồi, anh Lưu. Khi nào bảo vệ luận văn, gọi em một tiếng nhé. Em đi đây, lúc nào rảnh lại ra quán ngồi nhậu tí.”
Lưu Minh Minh gật đầu rồi lại say mê đánh bài trên máy.
Bước ra khỏi trường, ba năm thật chóng vánh. Tôi nhìn ngôi trường nhỏ bé ấy mà thấy mọi thứ như vừa mới ngày đầu bản thân đặt chân đến Hắc Long Giang. Khung cảnh xung quanh hầu như chẳng đổi: mấy gánh hàng rong vẫn bám trụ trước cổng, bất chấp có bị quản lý đô thị mời đi; giá bán đồ ăn cũng tăng, hiện nay một cái bánh tráng nướng đã ba đồng, người bán thuốc diệt gián chuyển sang bán thuốc chuột; quầy đĩa lậu không còn để nhạc của Ngũ Chu Vương nữa, mà đổi sang bài rock dân gian “Tự Do Bay Cao”.
Không biết lần sau tôi trở lại trường sẽ là khi nào. Nhìn cảnh vật như vậy, trong lòng chợt dâng cảm xúc: thằng nhóc từng rời quê vì một cô gái giờ đã phải học cách tự nuôi sống bản thân. Những người tôi từng thương — Đỗ Phi Ngọc, Đổng San San — giờ ra sao? Có lẽ họ cũng đang lạc lối giống tôi, có khi cũng thỉnh thoảng bâng quơ nhớ lại chuyện cũ, chợt than thở rằng cuộc đời thật ngắn ngủi, không phải dài vô tận như người ta vẫn nghĩ.
Bây giờ là mùa thu, lá hai bên đường đã vàng, theo gió bay lả tả. Tôi nhét hai tay vào túi áo khoác cũ, lòng có chút chênh vênh. Nhưng tôi hiểu, đường đời còn phải bước tiếp, dù trước mặt có sương mù hay trong lòng còn m.ô.n.g lung. Vậy nên tôi gạt nỗi buồn qua một bên, tự hỏi còn điều gì chưa làm ở trường không, chợt nhớ ra một việc. Tôi quay lại, đến trước tấm biển “Viện mỹ thuật XX — Cơ sở Hắc Long Giang” rồi bĩu môi khạc nhẹ.
Ha ha, ông mày đi đây, cái trường c.h.ế.t tiệt!
