Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 53: Quán Mì Ven Đường
Cập nhật lúc: 13/09/2025 16:08
Sau khi đã có chỗ ở, mấy ngày kế tiếp tôi phải miệt mài chạy từ hội chợ việc làm này đến hội chợ kia, hy vọng tìm được công việc đủ nuôi thân. Áp lực thật lớn.
Hôm ăn mặc bảnh bao chỉnh tề tới một hội chợ tuyển dụng, tôi bị choáng váng: người đông không thể tả, đúng là “như núi như biển”. Mỗi người ăn mặc còn “chuyên nghiệp” hơn tôi, tay cầm đống bằng cấp, chứng chỉ dày cộm, trao hồ sơ cho từng bàn tuyển dụng như thợ bưu điện thạo nghề. Nhìn cảnh đó, tôi bỗng muốn xé mười tờ hồ sơ mỏng manh của mình ngay tại chỗ.
Nhưng tôi vẫn nhịn được, vì nếu giờ không kiếm được việc thì thật khó mà chấp nhận được, ít nhất phải tự nuôi nổi mình đã, rồi mới tính đến ăn thịt hay ăn cháo sau.
Nhớ thời mới vào đại học, tôi thật ngây thơ, tưởng tốt nghiệp rồi sẽ dễ dàng kiếm được một công việc vừa ý, kiểu đi làm từ chín tới năm, có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ; tôi chẳng cần làm gì nhiều vẫn ngồi chễm chệ trên ghế trưởng phòng nọ kia. Sau đó ngày ngày hãnh diện trêu chọc mấy cô em cấp dưới cho vui.
Bây giờ mới thấy tất cả chỉ là mơ mộng. Cạnh tranh trong xã hội quá lớn, luôn có sinh viên tốt nghiệp ra trường nhưng vẫn không tìm được việc. Nhìn xa ra chừng hai mươi năm trước, khi đó cánh sinh viên ra trường không lo thất nghiệp, đơn vị nào cũng chạy ra đón, nhưng chỉ hai mươi năm sau thôi, hàng chục vạn người tốt nghiệp giờ còn phải ra đường mưu sinh — thời thế đổi thay, lúa thì năng suất cao, sinh viên cũng vì thế mà tăng như nấm mọc.
Gần hơn nữa, nửa năm trước tôi còn đọc báo thấy tin ba sinh viên ra trường phải đi… xúc phân. Lúc đó tôi thấy không thể tin nổi, nghĩ rằng không thể có mức thấp như vậy, nhưng tới hôm nay mới nhận ra, thực ra mình cũng cách chuyện đó không còn xa là bao.
Những ước mơ viển vông phải dựa trên nền tảng tài chính, nếu không dù bạn có mơ bao nhiêu cũng vô ích. Như tôi vậy, tôi có rất nhiều ước mơ. Lúc nhỏ ước mơ của tôi là làm Chủ tịch nước, nhưng lớn lên mới thấy mình học sai ngành, ước mơ đầu tiên phải bỏ.
Ước mơ thứ hai là làm nhà thơ; hồi trung học tôi mê Xuân Diệu lắm, quyết tâm sau khi tốt nghiệp sẽ trở thành một thi sĩ phong lưu. Đến khi sắp ra trường, ước mơ ấy thay đổi: giờ tôi chỉ mong làm ông chủ phong lưu.
Để có cơm thịt mà ăn, giấc mơ làm thi sĩ cũng phải xếp xó. Thực ra “phong lưu” của thi sĩ khác với “phong lưu” của ông chủ một trời một vực.
Nếu phải chọn giữa hai thứ phong lưu ấy, bạn sẽ chọn cái nào? Tôi chọn cái sau.
Nhớ thời học cấp hai, nhìn mấy anh họ lớn hơn tốt nghiệp, cứ hỏi họ bận gì thì lại nhận được câu trả lời: “Tìm việc.” Khi đó trong mắt tôi, nghề “tìm việc” oai lắm, rất “xã hội”.
Nhưng tới lúc mình đi tìm việc mới thấy, chạy xin việc không oai chút nào, mà hơi… ngớ ngẩn nữa.
Thế nên tôi - gã ngớ ngẩn, đành chịu nhục chen lấn trong đám đông, lủi thủi chạy tới chạy lui xem có công ty nào nhận mình không. Vì học thiết kế đồ họa, tôi tới mấy bàn tuyển dụng của các công ty quảng cáo, trang trí nhỏ, thả một nụ cười lịch sự hỏi về điều kiện tuyển dụng và chế độ công ty.
Do xếp hàng quá đông, người tuyển dụng của công ty quảng cáo sau khi hỏi bằng cấp liền nói thẳng: công ty hiện chỉ tuyển thợ có tay nghề; với người mới ra trường như tôi, chỉ nhận vào thực tập. Thời gian thực tập không bao ăn, lương một tháng một trăm năm mươi tệ.
Tôi nghe xong tức muốn vỡ mật: “Chỉ được xem là thực tập ư? coi thường tôi à? Nếu tôi vào làm, cày bừa vất vả một tháng chỉ được một trăm năm mươi tệ?”
Nếu ở Hắc Long Giang, một tháng một trăm năm mươi tệ thì dù tôi ngày nào cũng ăn cơm trong nhà vệ sinh cũng không đủ.
Mẹ nó chứ, ông đây cũng chẳng thèm lắm lời thêm nữa, nhìn cảnh cầm sơ yếu lý lịch của tôi vứt lên chồng hồ sơ dày cộp trên bàn, tôi đứng dậy phủi m.ô.n.g bỏ đi luôn. Nhưng vừa bước được mấy bước, tôi lại quay lại, trừng mắt nhìn cái bản mặt hèn hèn của gã rồi tiện tay lấy lại bản lý lịch của mình.
Dẫu sao tôi cũng chỉ mang theo đúng mười bản, giờ nhất định phải biết tiết kiệm tài nguyên.
Bôn ba cả buổi sáng, tôi uể oải lê bước vào một tiệm mì nhỏ, gọi một tô mì kéo lót dạ. Quán trông cũ nát, giờ ăn trưa mà khách chẳng có mấy. Trong tiệm chỉ có mình tôi, vừa ngồi xuống thì một người phụ nữ chừng bốn, năm mươi tuổi đi tới, rót cho tôi một cốc nước nóng rồi hỏi:
“Chàng trai, ăn mì gì nào? Nhà dì làm món gì cũng được.”
Tôi nhìn cái bàn dính bụi, trên đó đặt đống đũa dùng một lần trông như đã phủ một lớp xám xịt, lòng thầm nghĩ: thôi kệ, giờ cũng chẳng phải lúc kén sạch bẩn, có cái bỏ bụng là may rồi. Thế nên tôi bảo:
“Cho cháu một bát mì cay, làm sợi nhỏ thôi, thêm nhiều giá vào.”
Dì ấy nghe xong liền quay vào bếp gọi với:
“Ông nó ơi, kéo cho cậu này một bát mì, kéo nhỏ thôi nhé!”
Nghe xong câu đó, tôi suýt thì sặc luôn. Nói thế nghe khiếp quá, còn muốn cho người ta ăn không đây?
Nhưng nghĩ dì ấy cũng có tuổi rồi, tôi chẳng chấp nữa, lại cúi đầu ủ rũ ngồi trên ghế, rút điếu thuốc châm lửa, vừa hút vừa thầm than: càng hút càng nóng ruột.
Cả buổi sáng lặn lội vẫn chưa tìm được việc. Hễ mấy công ty nghe xong tình hình của tôi thì thái độ đều giống nhau, rõ ràng họ chia ứng viên thành ba loại, còn tôi thì bị xếp hạng bét, toàn bắt đi thực tập. Có công ty còn quá quắt hơn, thực tập mà trả có năm chục tệ một tháng. Mẹ kiếp!
Càng nghĩ càng bực, trong lòng như có gì nghẹn lại, một thứ cảm giác bất lực không sao tả nổi. Bực quá, tôi bỗng muốn làm chén rượu. Thế là quay sang bảo bà chủ:
“Dì ơi, cho cháu thêm ba chai bia nữa với mấy đĩa dưa cay, gì cũng được.”
Chẳng mấy chốc, dì ấy cười cười mang ra hai đĩa nhỏ: một đĩa đậu phụ khô xào cay, một đĩa cần tây trộn lạc, thêm ba chai bia Harbin. Dì hỏi có mở luôn không, tôi gật đầu.
Sau đó lấy một cái cốc coi như còn sạch sẽ, dùng khăn giấy lau qua loa rồi rót bia vào.
Nốc cạn một cốc bia, lập tức có cảm giác mát lạnh trôi khắp người, ợ lên một tiếng, tâm trạng dễ chịu hẳn. Tôi gắp thử một đũa đậu phụ khô cho vào miệng, nói thật, mùi vị cũng khá ngon.
Chẳng bao lâu, một ông chú trung niên bưng ra cho tôi một tô mì, đặt lên bàn rồi cười hiền, bảo:
“Còn nóng đấy, ăn từ từ thôi.”
Tôi nhìn tô mì cay đỏ au, bóng loáng dầu mỡ, mùi thơm ngào ngạt. Nhưng khi vừa gắp một đũa bỏ vào miệng, lại lập tức sững người — ngon đến khó tin! Thật chẳng ngờ một quán nhỏ tồi tàn thế này lại nấu được món mì ngon đến vậy. Tôi thề, từ nhỏ đến giờ chưa bao giờ ăn tô mì nào ngon đến thế.
Tôi nghi ngờ đến mức còn lật cả đáy bát, nghĩ thầm: chẳng lẽ quán bỏ thứ gì giống như thuốc phiện vào ư? Sao mà thơm ngon lạ thường thế này? Nhưng nghĩ lại thì chẳng thể nào, vì một bát mì chỉ có năm đồng, nếu bỏ thuốc phiện thì tiền vốn cũng chẳng đủ.
Tôi cứ thế mà ăn ngấu nghiến. Trong quán giờ chỉ có mình tôi, ông bà chủ cũng ngồi nghỉ ở bàn nhỏ gần đó. Tôi để ý thấy hai người họ cứ tươi cười mãi, chẳng biết vì điều gì. Chú ấy tầm năm mươi, đầu cắt cua ngắn gọn, vài sợi tóc đã bạc trắng. Chú vừa cười vừa hỏi tôi:
“Chàng trai, mì nhà chú thế nào?”
Lúc này tôi đã chẳng buồn uống bia nữa, chỉ chăm chú ăn, suýt nữa húp sạch cả nước. Lau miệng xong, tôi đáp ngay:
“Ngon thật đấy, không ngờ tay nghề của chú lại giỏi thế.”
Chú cười ha hả:
“Ấy là phải rồi, hehe.”
Tôi ăn no bụng, rót thêm bia, nghĩ cũng rảnh rỗi nên quay sang bắt chuyện. Tôi hỏi:
“Chú ạ, mì ngon thế này mà sao lại ít khách đến thế?”
Chú ấy vẫn giữ nụ cười hiền hậu:
“Thật ra làm người cũng như nấu mì vậy, không thể chỉ nhìn bề ngoài. Ai thấy quán nhà chú tồi tàn thế này dĩ nhiên chẳng muốn bước vào. Nhưng những người chịu vào rồi mới phát hiện ra hương vị đặc biệt của mì. Đấy chính là bí quyết của chú: mì này chỉ để dành cho người có duyên.”
Nghe vậy, tôi thấy người này không chỉ vui tính mà còn thấm thía, triết lý ra trò. Nghĩ kỹ lại, quả đúng như vậy. Giờ trong thành phố, thứ gì cũng trông chờ vào lớp vỏ hào nhoáng. Những nhà hàng sang trọng mọc san sát, bày trí xa hoa lộng lẫy, thế nhưng món ăn bên trong chưa chắc đã ra gì. Hồi đại học tôi cũng có dịp ăn ở vài quán lớn, vậy mà mấy món do “đầu bếp quốc gia cấp mấy” nấu ra chẳng thể ngon bằng một tô mì bình thường ở cái quán nhỏ bé này.
Con người thực sự đúng là loài thích hư vinh. Nhiều khi đến nhà hàng sang trọng chẳng phải để ăn, mà chỉ để thỏa mãn cái sĩ diện. Trong khi thức ăn ở đó có ngon mấy cũng chẳng bằng cơm nhà, vậy mà ai cũng thích làm kẻ ngốc. Nghĩ mà buồn cười. Một thói đời méo mó.
Còn tô mì trước mặt lại mang đến hương vị như ở nhà. Giống như hồi bé tôi bị ốm, bà nội hay nấu cho tôi bát mì nước nóng hổi. Nghĩ tới đây, tự dưng tôi lại nhớ nhà, mắt cay cay.
Tôi nói với chú:
“Chú ơi, không ngờ chú nói chuyện sâu sắc như vậy, thật khiến cháu mở mang. Thôi, chú ngồi lại uống với cháu vài chén nhé.”
Ông chú cũng thật hào sảng, chẳng khách sáo, đến ngồi đối diện tôi, quay sang bảo vợ:
“Bà nó à, xào thêm hai món đi, tôi với cậu thanh niên đây làm vài chén. Hôm nay vui, tôi mời.”
Bà chủ gật đầu rồi đi vào bếp. Tôi ngượng nghịu xua tay:
“Ôi đừng ạ, hai người mở quán cũng đâu dễ dàng, sao lại để chú mời được?”
Chú ấy vẫn cười, đáp:
“Cháu trai, gặp nhau cũng là cái duyên. Nói thật, hai vợ chồng chú mở quán cũng chẳng mong kiếm tiền, chỉ cầu vui vẻ. Thôi đừng khách sáo nữa, nào, uống đi!”
Sau đó, tôi với chú ấy bắt đầu uống rượu. Nhưng càng nói chuyện, tôi càng kinh ngạc, đối phương nói câu nào cũng thấm thía, câu nào cũng có ý nghĩa sâu xa, khiến tôi không khỏi khâm phục.
Một lát sau, bà chủ từ trong bếp bưng ra thêm hai món, một đĩa mộc nhĩ xào, một đĩa thịt thăn rim khô. Dì ấy đặt lên bàn rồi cũng ngồi xuống trò chuyện cùng chúng tôi.
Hai món ăn này cũng ngon đến bất ngờ. Tôi vừa tán thưởng tay nghề nấu nướng của cả hai, trong lòng càng khâm phục sự từng trải và trí tuệ của họ. Ở họ có cái gì đó rất phóng khoáng, rất ung dung. Thật không ngờ chỉ vì ghé bừa vào một quán mì cũ kỹ thế này, tôi lại có được một món quà bất ngờ như vậy.
Chú hỏi tôi: vừa nãy nhìn cháu có vẻ tâm trạng không tốt, có chuyện gì phải không?
Uống xong hai chai bia, men rượu bắt đầu ngấm, tôi cười khổ, thành thật kể cho chú nghe tình cảnh của mình: vừa tốt nghiệp đại học đã phải đối mặt với thất nghiệp.
Chú nâng ly bia, vừa cười vừa nhìn tôi chăm chú, ánh mắt đặc biệt dừng lại ở ngón út với móng tay dài của tôi, chắc chú ấy lấy làm lạ tại sao một thằng trai trẻ hai mấy tuổi lại giữ cái móng ấy.
Rít một hơi thuốc, chú mỉm cười bảo:
“Cháu trai, đừng nản. Ai cũng phải đi qua giai đoạn này cả thôi. Chú khuyên cháu đừng chỉ bám lấy một cái cây mà treo cổ, có bao giờ nghĩ đến việc thử làm công việc khác ngành chưa?”
Tôi cười gượng:
“Chú à, giờ cháu chỉ mong có công việc nào đủ ăn là mừng rồi, còn gì cũng được.”
Nghe vậy, đối phương lại cười, rồi rút từ trong túi áo ra một tấm danh thiếp, đưa cho tôi:
“Đây là cửa hàng của bạn chú. Dạo này anh ấy đang cần tuyển người. Nếu cháu đồng ý thì cứ đến tìm gặp xem.”
Má ơi, thật vậy sao? Từ trước tới giờ tôi toàn xui xẻo, hôm nay chẳng lẽ lại gặp vận may? Chuyện tốt thế này mà cũng rơi xuống đầu tôi ư?
Tôi bán tín bán nghi nhận lấy danh thiếp, nhìn kỹ cái tên cửa hàng trên đó lại lập tức sững người.
