Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 55: Lam Đạo Hưng Thịnh
Cập nhật lúc: 14/09/2025 16:28
Cái gọi là âm dương tiên sinh, thực ra là một nghề dân gian đặc thù, bao hàm rất nhiều ý nghĩa. Họ không thuộc về bất kỳ giáo phái nào, chỉ là những người dân bình thường, nhưng vì nắm giữ dị thuật nên mới đi lại trong dân gian, trừ tà hàng yêu. Có thể coi họ là thầy trừ linh dân gian.
Nghề này có nguồn gốc rất xa xưa. Đến cuối thời nhà Thanh và thời Dân quốc, do thiên hạ loạn lạc, yêu tà hoành hành, nên quái sự khi ấy nhiều vô số kể. Tương ứng mà nói, thời Dân quốc cũng chính là thời kỳ huy hoàng nhất của nghề âm dương tiên sinh.
Nhiều danh gia đều xuất thân từ giai đoạn đó. Tất nhiên, đây chỉ là chuyện Cửu Thúc kể lại cho tôi nghe. Nếu không, trong cái xã hội “hài hòa” này, làm sao tôi biết được những chuyện bị coi là phản động như thế.
Sau ngày giải phóng, bởi tính chất đặc thù, thầy âm dương cùng với các thầy “nhảy đồng” đều bị chụp cho cái mũ to “thầy lang mê tín”, trở thành tấm gương phản diện trong phong trào chống mê tín phản khoa học. Họ bị lôi ra đấu tố khắp nơi. Nhiều thầy âm dương thực sự có bản lĩnh đều đã già cả, thử hỏi sao họ chịu nổi những trận hành hạ đó.
Sau mười năm đại nạn, cái nghề âm dương này trong cả nước chẳng còn lại bao nhiêu, rất nhiều tuyệt kỹ dân gian cũng thất truyền theo. Về sau nghĩ kỹ lại, có lẽ đây mới là kết cục tốt nhất, bởi trong thời đại khoa học công nghệ cao này, đâu còn cần đến một nghề gắn với thần quỷ. Chỉ cần dính đến chuyện ma quỷ là sẽ bị quy ngay thành mê tín phong kiến.
Thực ra, nguyên nhân khiến những nghề cổ xưa dân gian ấy bị quy thành mê tín còn có một lý do khác: chính là bọn lừa đảo vô liêm sỉ. Chúng giả mạo thầy âm dương, dùng mồm mép ba hoa và vài trò che mắt thiên hạ để moi tiền người dân. Bởi vì, số người thật sự có bản lĩnh thì ít, còn bọn lừa đảo lại nhiều vô kể.
Cửu Thúc từng kể với tôi rằng, trong giới âm dương tiên sinh cũng chia làm hai phái:
Một là Bạch phái, tức những thầy âm dương chính tông.
Hai là Lam đạo, bọn chỉ biết ăn nhờ cái mồm, toàn phường bịp bợm.
Mặc dù sau thời kỳ Cách mạng Văn hóa, đất nước phát triển phồn vinh, chẳng còn thấy bóng dáng những thầy phép thuộc "Bạch phái" chính thống nữa, nhưng xã hội hòa hợp thì lại chẳng bao giờ thiếu kẻ lừa đảo. Thêm vào đó, áp lực cuộc sống ngày càng lớn, khiến không ít người trong tầng lớp thượng lưu cũng bắt đầu mê mẩn chuyện quỷ thần, bói toán, cho nên mấy năm nay, bọn lừa đảo "Lam đạo" mọc lên như nấm sau mưa.
Để tránh bị xã hội dòm ngó, chúng thường mở tiệm mưu sinh bên ngoài, còn sau lưng thì làm cái trò “lừa thần, gạt quỷ”.
Đáng buồn thay, ông chủ của Phúc Trạch Đường – chỗ tôi làm thuê – là chú Văn, lại đúng là một kẻ “Lam đạo” chính hiệu. Ngay ngày đầu tôi đi làm, ông ấy đã gọi tôi vào hậu viện, trò chuyện suốt một buổi sáng, dạy tôi mánh khóe hành nghề trong giới này, cũng như cách phối hợp để lừa gạt. Điều này khiến tôi ngã ngửa, không ngờ đường đường là truyền nhân chính tông của “Bạch phái” như tôi, giờ lại đi làm công cho một lão “Lam đạo” bịp bợm.
Nhìn cái dáng vẻ gian xảo của chú Văn, trong lòng tôi thoáng nổi lên ý định không muốn tiếp tục làm việc nữa. Vì Cửu Thúc từng bắt tôi thề rằng, tuyệt đối không được dùng bản lĩnh của mình để lừa tiền thiên hạ. Nếu tôi còn ở lại đây, chẳng phải là tự vả vào mặt mình sao?
Nhưng nếu nghỉ, lại trở về cái kiếp “trạch nam” vô công rồi nghề? Chẳng lẽ đi làm mấy việc lương có 150 tệ một tháng? Nghĩ thôi đã thấy sợ.
Vậy nên tôi âm thầm quyết định, tạm thời cứ ở đây làm đã. Dù sao kẻ lừa đảo cũng là chú Văn, không phải tôi. Hơn nữa, nếu trong lúc này tình cờ gặp phải những người thật sự mắc “dị bệnh”, tôi vẫn có thể âm thầm ra tay giúp đỡ, như vậy cũng không đến nỗi làm xấu thanh danh của Cửu Thúc. Nghĩ đến Cửu Thúc, tôi tự nhủ tuyệt đối không thể cho người biết mình đang làm việc ở chỗ này, bằng không sư phụ mà nổi trận lôi đình thì tôi chắc chắn chẳng có kết cục tốt đẹp.
Nói về chú Văn – lão thầy lang dỏm này – qua mấy ngày quan sát, tôi phát hiện ông quả thực có bản lĩnh “lừa thần, gạt quỷ”. Rất nhiều người nghe danh tìm đến nhờ xem tướng, chọn đất, trừ tà. Ông ấy lừa được đám người đó đến ngẩn ngơ, khiến tôi không khỏi cảm thán. Nói cho cùng, đây cũng tính là một loại bản lĩnh lợi hại.
Lúc đầu, tôi còn chưa quen với kiểu sống “lừa gạt” này. Nhưng hơn một tháng sau, cũng dần thích nghi. Bởi lẽ những người tìm đến chú Văn, phần lớn đều là kẻ có tiền hoặc quan chức. Những kẻ đó bình thường làm nhiều chuyện khuất tất, nên hễ gặp chuyện lạ liền hoảng hốt, cứ nghĩ do ma quỷ tác oai tác quái, thật ra đều do tâm lý mà ra.
Thành thật mà nói, tôi cực kỳ coi thường những kẻ như vậy. Tôi cho rằng chú Văn moi tiền của họ cũng chẳng sai. Bởi vì cái gọi là quan chức, cái gọi là nhà giàu, bình thường chẳng buồn ngó ngàng đến bao nhiêu người nghèo khổ cần giúp đỡ, nhưng lại sẵn sàng bỏ hàng vạn tệ để rước một pho tượng Phật về thờ mà chẳng hề chớp mắt. Cứ để bị chú Văn lừa cho cũng đáng.
Thực ra, chú Văn đối xử với tôi khá tốt. Sau khi thân quen, giữa chúng tôi chẳng còn kiêng dè nhiều. Lúc ông ấy chơi “Đấu địa chủ”, tôi còn thường xuyên ngồi bên cạnh giúp coi bài. Chú Văn nhìn tôi cũng khá vừa mắt, bởi tôi vừa lanh lợi, vừa mồm mép, bảo tôi giống y như mình lúc trẻ.
Chú Văn chỉ có một yêu cầu duy nhất, đó là một quy củ bất di bất dịch của tiệm: “Không được có bất kỳ tiếp xúc gì với người bên tiệm Dịch Phúc Quán đối diện.”
Tôi thấy rất kỳ lạ, cứ hễ nhắc đến Dịch Phúc Quán là chú Văn lại mang bộ dạng đau khổ, căm hận, nghiến răng nghiến lợi, giống như bên đó nợ ông mấy chục vạn bạc chưa trả vậy.
Nhưng nhìn bộ dạng ấy, tôi cũng chẳng tiện hỏi thêm. Dù sao thì ngày nào đi làm cũng rất nhàn rỗi. Chú Văn bảo nghề này không phân biệt chủ tiệm hay nhân viên, ông nói tôi chỉ cần học việc, cứ học cho giỏi đi, mai này xuất sư rồi có thể tự mình mưu sinh.
Bề ngoài, tôi gật gù ứng phó, nhưng trong lòng lại thầm khinh thường. Phải biết rằng, tôi đây có bản lĩnh thật sự, chứ đâu như lão, chỉ biết diễn trò, nói ba hoa mà thôi.
Ngày tháng như thế cũng coi như an nhàn. Công việc hằng ngày của tôi chẳng qua là quét tước vệ sinh, ra chợ đầu mối mua vàng mã, nến… Những món đồ này qua tay chú Văn một phen, vậy mà có thể bán ra cao gấp hai chục lần giá vốn. Chuyện đó quả thật khiến tôi bội phục.
Cứ thế, tôi bình yên làm việc ở đó mấy tháng. Cho đến gần tháng Chạp thì xảy ra một chuyện – một chuyện giống như ngòi nổ, gián tiếp ảnh hưởng đến nửa đời sau của tôi.
Hôm đó là một buổi chiều. Sau bữa cơm, tôi với chú Văn chẳng có việc gì làm, liền ngồi cạnh xem ông đánh “Đấu địa chủ”. Ánh nắng trưa hắt vào tạo cảm giác uể oải, nhìn được một lúc, tôi bắt đầu thấy buồn ngủ. Thừa lúc đối phương mải mê chơi bài không để ý, tôi lén chuồn ra quầy thu ngân, chống cằm lim dim, rồi dần dần chìm vào giấc ngủ.
Nhưng còn chưa kịp ngủ say, cửa bỗng mở ra. Một người phụ nữ bế theo đứa trẻ bước vào, trên người mang theo hơi lạnh. Lúc ấy trời đang rét, chị ấy mặc áo phao dày, ôm đứa bé quấn kín trong chăn. Gương mặt thằng bé bị gió lạnh thổi đến đỏ bừng.
Vừa nhìn, tôi lại thấy quen quen, hình như đã từng gặp hai mẹ con ở đâu đó. Người phụ nữ đi vào liền hỏi:
“Xin hỏi, Văn tiên sinh có ở đây không?”
Tôi nghĩ thầm: Lại thêm một kẻ có tiền đến nhờ xem tâm bệnh rồi.
Thế nên tôi hướng vào trong buồng, nơi chú Văn đang chơi bài, hô lớn:
“Có khách đến!”
Chú Văn nghe thấy có mối làm ăn, lập tức bước tới, bày ra bộ dạng cao thâm, hỏi:
“Cô muốn mua gì? Tiệm nhỏ này thần tiên đủ cả.”
Ai ngờ người phụ nữ vừa thấy ông thì òa khóc, nói:
“Văn tiên sinh, tôi được giám đốc Trương chỗ đơn vị giới thiệu đến. Ai cũng bảo ngài linh nghiệm lắm, xin hãy cứu lấy con tôi!!”
Nói xong, chị ấy quỳ ngay xuống trước mặt chú Văn.
Tôi với chú Văn vội đỡ chị dậy, hỏi thăm rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Người phụ nữ lại ngập ngừng hỏi:
“Phòng trong của ngài… có thể dùng được không?”
Chú Văn biết ngay chắc chắn có chuyện khó nói, bèn gật đầu. Sau đó chúng tôi cùng vào phòng trong, cũng chính là phòng ngủ của ông ấy. Người phụ nữ liền tháo lớp chăn áo dày trên người đứa bé, đặt nó quay lưng lại trước mặt chúng tôi.
Tôi và chú Văn vừa cúi mắt nhìn, lập tức rùng mình, suýt nữa thì nôn ngay tại chỗ. Chỉ thấy bên hông phải, ngay dưới xương sườn của thằng bé mọc ra một thứ giống như khối u, màu tím bầm, đầy những tia m.á.u li ti. Điều khiến người ta dựng tóc gáy nhất chính là khối u ấy lại có hình dáng giống hệt một khuôn mặt người — có mũi, có miệng, mắt nhắm nghiền, theo từng nhịp thở của đứa bé mà khẽ run rẩy, giống hệt như một sinh mệnh thật sự.
Cái thứ này quá mức tà môn! Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy cảnh tượng như vậy, chẳng khác nào bước ra từ phim kinh dị. Nhìn thằng bé thở hổn hển, khó nhọc, tôi bỗng nhớ ra, mấy tháng trước, lúc đi nộp luận văn ở trường, trên xe buýt, tôi từng gặp hai mẹ con này! Đứa trẻ này chính là thằng nhóc mập ăn bánh bao khiến tôi phát thèm ngày hôm đó!
Thế nhưng bây giờ nhìn lại, nào còn dáng vẻ phúng phính ngày trước nữa. Nói không ngoa, nó đã gầy rộc đến nỗi chỉ còn da bọc xương, bảo sao ban đầu tôi không nhận ra.
Chuyện này tuyệt đối không bình thường. Tôi tập trung tinh thần quan sát trán thằng bé, thấy một vùng hắc khí lượn lờ, hỏa khí trên người nó yếu ớt vô cùng. Phải biết, hỏa khí chính là căn bản để con người tồn tại. Một người nếu hỏa khí suy kiệt thì bệnh tật quấn thân, còn xui xẻo hơn thì thường xuyên gặp ma quỷ.
Lúc này hỏa khí của thằng bé đã yếu đến cực điểm, nếu không có cách cứu, e rằng chẳng sống nổi mấy ngày nữa. Chú Văn rõ ràng cũng bị khối u ghê tởm kia dọa cho hoảng, vội nói với người phụ nữ:
“Đừng vội, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Nói hết cho tôi, biết đâu tôi có thể giúp cô.”
Người phụ nữ mặc lại quần áo cho con, ôm nó vào lòng, ngồi xuống ghế, vừa khóc vừa kể lại ngọn nguồn câu chuyện ly kỳ này.
