Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 57: Mùi Đồng Tiền Và Khí Tiết
Cập nhật lúc: 14/09/2025 16:28
Phải nói, Tống Giai thật sự là một người phụ nữ vừa thiếu chủ kiến vừa thiếu đầu óc. Ba tấm bùa giả cộng thêm một túi chu sa nhỏ, thế mà lại bị chú Văn hét giá tận 888 tệ.
Thật đáng thương, trong mắt con thú đội lốt người kia, chị ấy chẳng khác nào một con cừu béo để mặc ông ấy xẻ thịt.
Nói thật thì, chú Văn đúng là cái loại sinh ra để làm dân buôn, các trò lừa lọc, gạt gẫm, chiếm đoạt đều đủ cả. Còn Tống Giai lại bế đứa bé, vừa khúm núm vừa rối rít cảm ơn chú Văn, lời lẽ khách sáo đến mức tôi chẳng nỡ nhìn nữa, đành quay đi chỗ khác.
Tống Giai cầm lá bùa, rời khỏi cửa tiệm. Chị ôm đứa nhỏ trong lòng, tôi ngó vào mắt nó, ánh mắt ấy tràn đầy hoang mang. Tội nghiệp thay, đứa bé vốn mũm mĩm đáng yêu, giờ chỉ còn da bọc xương. Nói thật, tôi vốn là người mềm lòng, không chịu nổi cảnh kẻ khác đau khổ. Đứa bé đáng lẽ đang ở cái tuổi vô tư vô lo, thế mà trời cao lại bắt nó gánh tai họa thế này.
Có lẽ vì chủ nghĩa anh hùng cá nhân trỗi dậy, có lẽ vì lương tâm cắn rứt, cũng có lẽ vì ánh mắt của đứa trẻ ấy chạm thẳng vào tim mình, nên vào chính giờ khắc này, quyết tâm hành động tối nay của tôi bỗng kiên định hơn bao giờ hết. Không do dự nữa, tôi cũng chạy ra ngoài, đuổi theo mẹ con họ.
Tống Giai thấy tôi đuổi kịp, liền hỏi có chuyện gì. Tôi bèn nói:
“Là thế này, chị có thể cho tôi biết địa chỉ nhà không? Văn tiên sinh bảo tối nay sẽ làm lễ cầu phúc cho hai mẹ con, cần có địa chỉ cụ thể.”
Nghe tôi nói vậy, Tống Giai cảm kích, vội viết địa chỉ lên một tờ giấy đưa cho tôi rồi rời đi. Chị ấy bế con đi rất vất vả, chậm chạp lê bước. Đi được một đoạn, chợt lại nhìn thấy Dịch Phúc Quán đối diện. Có lẽ còn muốn tìm thêm chút hy vọng cứu con, nên lại bước vào đó.
Tôi nắm chặt tờ giấy trong tay, thầm nghĩ: cái lão Văn thần côn này thì cầu phúc cái khỉ gì, ngoài ba hoa khoác lác và chơi đánh bài ra, lão còn biết gì nữa. Tối nay chẳng phải vẫn là tôi đích thân đi cứu mẹ con họ sao. Haizz.
Trời rét lắm, ban đêm chắc phải mặc thêm áo, kẻo đứng ngoài cả đêm lại cóng c.h.ế.t mất. Vừa nghĩ, tôi vừa quay lại cửa hàng. Thấy chú Văn đang hí hửng đếm tiền.
Đối phương ngẩng lên hỏi:
“Trời rét cắt da thế kia, chạy ra ngoài làm gì vậy?”
Tôi đáp:
“Có gì đâu, ra ngoài hít thở chút thôi.”
Vốn là kẻ cáo già tinh ranh, ông ấy lập tức nhìn ra tâm trạng tôi không tốt, bèn bảo:
“Tiểu Phi à, không phải chú có ý gì đâu, nhưng lòng dạ cháu vẫn còn mềm yếu lắm. Thấy mẹ con họ tội nghiệp, phải không? Nhưng cháu phải hiểu, người đáng thương thì nhiều lắm. Có những chuyện đâu phải ai muốn lo là lo được. Hiểu chứ?”
Tôi im lặng. Chú Văn nói xong liền móc ra năm mươi tệ từ tám trăm tám kia, dúi cho tôi:
“Cầm đi. Vừa rồi làm không tệ. Sau này cứ thế mà phối hợp, phần của cháu chẳng thiếu đâu. Rõ chưa?”
Tôi nhận lấy năm mươi tệ, trong lòng thầm thở dài: tiền đúng là thứ khốn kiếp, vì tiền mà người ta có thể bán rẻ đủ thứ, có thể lừa lọc, tổn hại người khác. Những loại người đó trước giờ tôi vốn khinh bỉ nhất, thế mà giờ đây chính tôi cũng dần trở thành một kẻ như vậy. Nhưng biết làm sao, tôi còn phải ăn, còn phải sống, nên không thể quay lưng với tiền được.
Quả thật, cá và tay gấu không thể có cả hai, khí tiết và mùi đồng tiền cũng chẳng thể dung hòa. Cái gọi là “chính khí thanh cao” ngoài xã hội, chẳng qua cũng chỉ là nói nhăng nói cuội. Thanh cao khí tiết cũng phải có nền tảng kinh tế thì mới nói được. Nếu bạn là kẻ ăn xin, ngày ngày chỉ biết uống gió tây bắc, thì lấy gì để giữ khí tiết?
Tôi nói với chú Văn:
“Thật ra ban nãy cháu ra ngoài, thấy mẹ con họ từ tiệm mình đi ra, lại ghé vào Dịch Phúc Quán.”
Nghe vậy, không hiểu sao chú Văn bỗng nổi trận lôi đình, chửi lớn: “Mẹ nó chứ, người phụ ấy không tin chúng ta mà lại còn đi xin lão già chết tiệt X bên kia ư? Đúng là tự chuốc họa vào thân. Cứ chờ đấy, cô Tống đó mà sang bên kia chắc chắn sẽ bị chặt chém!”
Tôi không biết “lão X” được nhắc tới là ai, nhưng chắc chắn họ phải là đối thủ không đội trời chung của chú Văn— hoặc có mâu thuẫn sâu nặng, nợ nần gì đó, chứ không thì tại sao ông ấy lại oán giận đến thế.
Chú Văn gằn giọng, nói muốn đi ra ngoài đánh mạt chược, gần bốn giờ tôi có thể về, còn dặn nhớ dọn dẹp cửa hàng cho gọn gàng, khoá cửa lại.
Tôi gật đầu, nhìn ông ấy bước đi xa dần, sau đó ngồi xuống trước màn hình máy tính. Thực ra tôi còn nhiều việc phải lo: trong đầu lại nhớ tới lời Cửu Thúc khi nói về cách trị Dạ Hồ, cần khá nhiều dụng cụ, nhưng may là mấy thứ đồ của nghề thầy âm dương thường chẳng khó kiếm. Nhìn đồng hồ mới hơn ba giờ chiều, tôi phải lên mạng tra xem quanh khu vực địa chỉ của Tống Giai có chỗ nào bán đủ thứ cần thiết không.
May sao, trong thành phố bây giờ, miễn có tiền là chẳng lo thiếu thứ; tôi dò một hồi thấy gần địa chỉ nhà chị ấy có một siêu thị lớn, mở cửa 24 giờ.
Hơn nữa lúc nãy chú Văn đã dúi cho tôi năm mươi tệ tiền “boa”, mua đồ cũng đủ. Tôi yên tâm tắt máy, vội quét tước sơ qua cửa hàng rồi chốt cửa ra về.
Ngồi trên xe buýt, tôi dựa vào cửa sổ ngắm phố phường. Cuộc sống của tôi bây giờ so với trước khác quá: không ngờ xã hội phức tạp đến thế, để tồn tại phải làm bao điều mình không muốn. Hồi trước tôi cứ tưởng đời là một khu vườn đẹp đẽ, nhưng khi sống trong khu vườn ấy, mới thấy những bông hoa đẹp nhất dường như chẳng nở ở đây. Tại sao mình phải sống vất vả như thế?
Từ lúc học Tam Thanh Thư đến giờ, cảm giác như số mệnh đã được an bài sẵn, chỉ đang lần theo kịch bản ấy mà bước. Nhìn lại mới thấy những thứ còn giữ được bên mình quá ít ỏi.
Tự thấy bản thân không hợp: thân phận như quý công tử mà lại làm việc phục vụ, cứ tìm khổ cho mình.
Vì chưa đến giờ tan làm, trên xe buýt khá vắng, màn hình xe đang phát nhạc êm dịu, là ca khúc của Từ Vi:
“Năm ấy, khi em còn trẻ, luôn tin rằng ngày mai sẽ tốt đẹp.
Thế giới lý tưởng như một tia sáng, rực rỡ trong tim em.
Sao có thể để trái tim luôn bùng cháy ấy, cứ thế tan biến giữa đường đời vô vị này.”
Trước sự khắc nghiệt của sinh tồn, những lý tưởng thuần khiết ấy lại mong manh đến đáng thương.
Người đứng giữa phố phồn hoa, lại chẳng tìm thấy lối đi thuộc về mình.
Người đứng giữa phố phồn hoa, chỉ thấy một nỗi hoang mang chưa từng có...”
Nghe khúc hát ấy, quả thật tức cảnh sinh tình, lòng tôi lại càng nặng nề khó chịu. Chính tôi cũng thấy kỳ lạ với cái tâm trạng trái ngang của mình.
Xe buýt chạy ngang qua chỗ quán mì của chú Viên, tôi liền xuống xe. Lúc này gió bắc nổi lên, dưới chân là lớp tuyết dày đặc trưng của miền bắc. Tôi kéo chặt cổ áo khoác lông vũ, rồi rẽ vào quán mì. Dù sao trong lòng đang rối bời, ăn một bát mì, tiện thể trò chuyện cùng chú ấy cũng tốt.
Không lâu sau, tôi đã đứng trước cửa quán. Cái mặt tiền xộc xệch, lạc lõng khác hẳn so với những cửa hàng bên cạnh, nhìn chẳng hợp mắt. Nhưng ai mà ngờ được, trong cái quán cũ nát ấy lại có một bậc cao nhân biết nấu ra thứ mỹ vị tuyệt vời.
Tôi đẩy cánh cửa ọp ẹp bước vào. Quán vẫn vắng vẻ y như lần trước, chú Viên và vợ đang ngồi trong xem tivi. Thấy tôi, dì Viên liền nở nụ cười hiền hậu:
“Tiểu Thôi, cháu đến rồi à.”
Rõ ràng họ vẫn nhớ tôi, điều này làm tôi thấy ấm lòng. Quả là đôi vợ chồng tốt bụng. Tôi gật đầu, nói:
“Vâng, cháu lại thèm mì chú nấu, nên hôm nay lại đến làm phiền rồi.”
Chú Viên nheo mắt cười:
“Chuyện nhỏ thôi. Cổ nhân nói lấy đàn kết bạn, lấy thơ gặp gỡ. Còn chúng ta, đàn ông với nhau, thì lấy mì mà kết duyên, lấy rượu mà thành bạn. Ngồi chờ đi, chú đi nấu ngay cho cháu.”
Tôi chọn một chiếc bàn nhỏ ngồi xuống. Dì Viên rót cho tôi một cốc nước nóng:
“Bên ngoài lạnh lắm nhỉ, uống miếng nước cho ấm.”
Tôi vội cảm ơn. Quả nhiên ngoài kia rét căm căm, hai tay đã đỏ bừng vì lạnh. Tôi nâng cốc nước, hơi ấm từ bàn tay lan thẳng vào lòng.
Dì Viên ngồi xuống chuyện trò:
“Ở chỗ lão Văn làm việc thế nào rồi, Tiểu Phi?”
Trong lòng tôi cười khổ, không biết nên đáp sao, đành gượng cười:
“Cũng tốt lắm ạ, chú Văn đối với cháu rất tốt.”
Đúng lúc ấy, chú Viên bưng bát mì nóng hổi từ trong bếp ra, vừa đi vừa nói:
“Mấy hôm trước gọi điện cho lão Văn, anh ấy còn khen cháu biết cách làm việc. Thanh niên như cháu được đấy, cứ cố gắng mà làm.”
Nghe thế, tôi chẳng biết trả lời sao, đành gật đầu một cách ngơ ngác.
Mì vẫn ngon như trước, vừa ăn vừa thấy bụng ấm lên, những nỗi hoang mang vừa rồi cũng tạm quên. Tôi nói với chú:
“Chú này, hôm nay lại uống với cháu vài chén nhé.”
Đối phương vốn cũng định thế, bèn mang ra hai đĩa đồ nhắm, ngồi đối diện tôi, mở hai chai bia. Một già một trẻ cùng nhau nâng cốc.
Vừa uống vào, tâm trạng tôi liền khá hơn nhiều. Chắc phần lớn nhờ trò chuyện với chú Viên. Chú ấy là người từng trải, rất khôn ngoan. Dù chỉ nói chuyện lặt vặt đời thường, cũng có thể khiến người ta ngộ ra nhiều điều.
Đúng lúc hai chú cháu đang trò chuyện vui vẻ, cửa quán bỗng mở ra, một luồng khí lạnh ùa vào theo người mới đến.
Người này khoảng chừng hơn bốn mươi, khoác trên mình chiếc áo lông chồn đen bóng, vừa nhìn đã biết là thứ đắt tiền. Ông ta có gương mặt vuông vức, đôi mắt sắc tựa chim ưng, râu quai nón xanh rì quanh cằm, toát ra vẻ quyết đoán, gọn gàng.
Ông ta bước vào, không thèm để ý đến ai, kéo ghế ngồi ngay gần cửa, rồi nhàn nhạt buông một câu:
“Cho một bát mì bò, đừng bỏ rau mùi.”
Tôi thấy hơi kỳ lạ. Với cái dáng vẻ ấy, rõ ràng là loại người giàu có, quyền thế, sao lại tới cái quán nhỏ xập xệ này ăn mì? Hơn nữa, nhìn thần thái của ông ta chắc không phải lần đầu đến đây.
Tôi quay sang nhìn chú Viên. Chỉ thấy nét mặt chú bỗng nghiêm lại, khác hẳn vẻ hiền hậu thường ngày. Đây là lần đầu tôi thấy chú ấy trông nghiêm trọng đến thế. Dì Viên cũng im lặng, nụ cười ấm áp thường trực đã biến mất, thay vào đó là vẻ lạnh lùng. Dì đáp gọn một câu:
“Biết rồi.”
Rồi quay vào bếp.
Tôi ngơ ngác nhìn cả hai, trong lòng chắc mẩm họ quen người này. Nhưng vì sao chú Viên lại có thái độ như vậy?
