Cuốn Vương Ở Thập Niên 60[ Mang Theo Một Xe Vật Tư Nuôi Gia Đình Ở Thập Niên 60] - Chương 80:--------
Cập nhật lúc: 27/12/2025 03:01
Lời nói này không những không khiến người của đại đội khác chú ý, ngược lại còn làm họ cười phá lên: "Tôi sống ở bờ sông này mấy chục năm rồi, chưa từng nghe nói vỏ trai có thể làm phân bón. Cô nghe ai nói thế? Hay là bị người ta lừa rồi?"
"Kỹ thuật viên nói đấy ạ!"
"Ối dào, kỹ thuật viên còn bảo có thể giúp chúng ta đạt năng suất vạn cân một mẫu kia kìa, nhưng tôi có thấy đại đội nào được vạn cân đâu!"
Nhắc đến chuyện "mẫu sản vạn cân", đám phụ nữ các thôn lại bắt đầu oán thán về mấy anh cán bộ kỹ thuật được phái xuống đại đội mình.
Phương ngôn vùng này rất khó nghe, ngay cả người cùng huyện còn chưa chắc hiểu hết, huống chi là kỹ thuật viên từ nơi khác đến. Kỹ thuật viên nói dân không hiểu, dân nói kỹ thuật viên cũng ngơ ngác. Hơn nữa, thời còn làm việc tập thể, ai nấy đều lười biếng, chẳng ai thèm nghe kỹ thuật viên chỉ đạo, cứ theo lối cũ mà làm, thậm chí còn làm ẩu hơn. Cộng thêm hạn hán, kết quả thu hoạch năm ngoái t.h.ả.m hại thế nào ai cũng rõ.
Nhưng họ không tự trách mình lười, mà đổ hết lỗi lên đầu mấy anh kỹ thuật viên cấp trên phái xuống.
Nhắc đến kỹ thuật viên, họ lại quay sang hỏi thăm tình hình thu hoạch năm ngoái của các đại đội khác. Hứa Minh Nguyệt chỉ ngồi im lặng lắng nghe.
Cô từng nghe ông nội kể, thời đại này thực sự vẫn còn thổ phỉ. Trong ba năm thiên tai, nhiều người đói quá hóa liều, tụ tập lại đi cướp bóc các thôn khác, sơn phỉ, thổ phỉ mọc lên như nấm.
Vùng đất này không văn minh, trật tự như bên kia sông. Nơi đây bị ngăn cách bởi sông lớn và núi cao nên dân phong đặc biệt dã man. Đặc biệt là cái thành phố giáp ranh với thành phố kế bên, mãi đến vài chục năm sau vẫn là "thủ phủ" của tội phạm: từ buôn bán ma túy, buôn người, bắt cóc đến các thế lực ngầm đều lộng hành ngang nhiên.
Lộng hành đến mức nào ư? Tàu hỏa cứ đi qua ga thuộc thành phố đó là nhân viên đường sắt phải hét lên cảnh báo: "Sắp đến ga X rồi, dậy hết đi! Đừng ngủ nữa! Trông chừng đồ đạc và con cái cẩn thận!"
Câu chuyện của đám phụ nữ chủ yếu là than nghèo kể khổ. Mà khổ thật chứ chẳng đùa.
Đang nói chuyện, thỉnh thoảng họ lại quay sang hỏi Hứa Minh Nguyệt vài câu. Đa phần cô chỉ im lặng, nếu bị hỏi dồn quá thì cô lại "đảo khách thành chủ", hỏi ngược lại về tình hình thôn họ, ví dụ như chuyện lương thực thừa ở nhà ăn hay chuyện cưới xin trong thôn.
Nhắc đến cưới xin, đám phụ nữ trông thuyền lại rôm rả hẳn lên: "Nửa cuối năm ngoái, mấy gã đàn ông ế vợ lâu năm trong thôn tôi đều lấy được vợ đấy, mà chẳng tốn một xu nào!"
"Mọi năm muốn cưới vợ không mất mười mấy đồng thì cũng phải tốn mớ lương thực sính lễ. Thế mà năm ngoái, khối cô đến xin ăn, chỉ cần cho miếng cơm là chịu về sống chung luôn, đỡ tốn bao nhiêu lương thực!"
Có lẽ vì trong thôn không thiếu vợ nữa nên mấy bà thím mò trai cũng nhanh ch.óng mất hứng thú với Hứa Minh Nguyệt, quay sang bàn tán về đám dân chạy nạn đến xin ăn năm ngoái. Họ không gọi là "nạn dân", mà gọi thẳng toẹt là "dân xin cơm".
Hứa Minh Nguyệt cứ ngồi trên thuyền nghe họ tán gẫu. Thực ra họ cũng chẳng nói được bao lâu thì khát nước. Người không kỹ tính cứ thế vục tay xuống sông Trúc T.ử uống vài ngụm rồi lại tiếp tục mò trai.
Mãi đến trưa, đoàn người đi mua niêu đất ở xưởng gốm mới lục tục trở về.
Chuyến đi sang thành phố kế bên lần này, Hứa Minh Nguyệt không tìm được cơ hội nào để lấy đồ từ trong không gian ra, cũng chẳng bán được gì. Cô cũng không vội, nhìn mực nước sông Trúc T.ử thế này, cô ước tính phải đợi qua ba năm thiên tai này mới có cơ hội dùng đến đống đồ dự trữ kia.
Sau khi nhà ăn tập thể giải tán, lương thực thu hoạch vụ thu năm ngoái được chia về từng hộ. Hứa Minh Nguyệt cũng được chia rất nhiều khoai lang, đậu tương, lạc...
Để hợp thức hóa việc lấy tương hột (tương đậu) trong không gian ra ăn, ngay khi nhận được đậu tương, cô bắt đầu bắt tay vào làm tương đậu thủ công. Nếu không, sau này nấu ăn mà nêm nếm gia vị lạ sẽ khiến người khác nghi ngờ.
Hiện tại không phải mùa làm tương hột, nên cô chỉ có thể làm tương đậu nành trước. Tương đậu nành là loại tương truyền thống ở vùng này. Ngày bé, cô thường thấy hàng xóm phơi tương trên những tảng đá lớn trước cửa nhà nên cũng biết cách làm.
Chỉ có điều, muốn làm tương đậu nành thì cần bột mì để bao bên ngoài hạt đậu đã ngâm nở, rồi mới đem ủ mốc. Trong xe tải của Hứa Minh Nguyệt chỉ có gạo tẻ, không có bột mì.
Vụ thu năm ngoái lúa nước trồng rất ít, đất đồi chủ yếu trồng khoai lang. Mỗi nhà chỉ được chia hai ba mươi cân gạo tẻ, còn lại toàn là khoai lang, đậu tương. Gạo tẻ quý như vàng, bình thường ai nỡ lấy ra ăn? Nhà có bà bầu và trẻ con mới dám rang ít gạo lên, xay thành bột nấu cháo loãng tẩm bổ.
Muốn xay gạo thành bột một cách kín đáo, Hứa Minh Nguyệt cần một cái cối đá. Nhưng muốn có cối đá phải đặt thợ đá lên núi đục, rồi lại nhờ thợ mộc làm chân đế, tay quay... rất mất thời gian.
May thay, tại đại đội bộ (nhà địa chủ Giang cũ) có sẵn cối đá. Mấy cái cối nhỏ, chày đá đã bị dân thôn Giang Gia "mượn" về nhà dùng, nhưng cái cối đá lớn ở sân sau thì vẫn còn đó. Việc xay bột của đại đội bộ đều thực hiện ở đây.
Hứa Minh Nguyệt cần không nhiều bột, nên khi mang niêu đất đến đại đội bộ giao cho Kỹ thuật viên Mạnh, cô hạ giọng hỏi nhỏ: "Thầy Mạnh, tôi có thể nhờ thầy một việc được không?"
Bình thường cô rất ít nói chuyện riêng với anh, chỉ chào hỏi xã giao khi đưa đón bé A Cẩm. Thấy cô đột nhiên thì thầm bí mật, Mạnh hơi ngạc nhiên. Anh tuy không rành tiếng địa phương nhưng cũng đoán được láng máng mấy lời trêu chọc của dân làng kiểu như "Mẹ cháu định tìm bố mới cho cháu à?".
Hứa Minh Nguyệt không nghĩ nhiều thế, cô xoay người che khuất ánh sáng từ cổng lớn, nhanh tay dúi cái niêu vào tay anh, thì thầm: "Thầy Mạnh, tối nay thầy có thể giúp tôi xay chỗ gạo trong niêu này thành bột được không?"
Kỹ thuật viên Mạnh nhìn cái niêu đất trong tay, rồi nhìn cô, gật đầu: "Được."
Hứa Minh Nguyệt nở nụ cười rạng rỡ, đôi mắt trong veo lấp lánh: "Vậy sáng mai tôi qua lấy. Lúc nào làm xong món ngon, tôi sẽ biếu thầy một phần."
Kỹ thuật viên Mạnh sống ngay tại đại đội bộ, anh không bị bệnh quáng gà, lại có đèn dầu. Chỗ gạo ít ỏi đó anh chỉ xay chưa đến nửa tiếng là xong.
Về chuyện cái chân tập tễnh của anh, Hứa Minh Nguyệt đã nhận ra anh buộc vỏ cây bạch dương vào chân, giấu trong ống quần để giả què. Cô không biết lý do vì sao anh phải luôn chống nạng, nhưng cô cũng coi như không biết, không vạch trần.
Lúc nhờ vả, cô quên mất một điều: Liệu một trí thức từ thủ đô về như anh có biết dùng cối đá nông thôn không?
Thực ra Mạnh không biết dùng, cối đá miền Nam và miền Bắc cũng khác nhau. Nhưng thứ này không khó, nhìn qua là biết, có tay là làm được.
Làm mốc tương dùng bột mì là tốt nhất, nhưng vùng này ít trồng lúa mì, chủ yếu là lúa nước nên đành dùng bột gạo.
Sáng sớm hôm sau, Hứa Minh Nguyệt xách giỏ rau đến đại đội bộ, thuận tay đặt cái giỏ gần cửa phòng Kỹ thuật viên Mạnh rồi ra sân sau kiểm tra cối đá. Cô sợ anh rửa không sạch, bột còn sót lại sẽ khiến người ta nghi ngờ.
Không ngờ Mạnh cẩn thận ngoài sức tưởng tượng. Cối đá không những được quét sạch bong không còn hạt bụi bột nào, mà còn được rửa lại bằng nước mương sạch sẽ.
Yên tâm không còn dấu vết, Hứa Minh Nguyệt quay lại sân trước. Chiếc giỏ rau của cô đã được phủ lên một tấm vải trắng.
Cô xách giỏ về núi hoang, bắt đầu công đoạn làm tương.
Năm cân đậu nành đã ngâm nở đầy một chậu gốm lớn từ đêm qua. Ban ngày chỉ cần luộc chín, ủ thêm hai tiếng cho mềm nhừ, phơi ráo nước, sau đó trộn đều với bột gạo đã xay sao cho mỗi hạt đậu đều được áo một lớp bột. Cuối cùng phủ vải trắng lên, đặt ở nơi thoáng mát chờ lên men mọc mốc vàng. Quá trình này mất khoảng 5-7 ngày, sau đó đem phơi khô, đãi sạch mốc là xong.
Hứa Phượng Liên chiều tối lên núi hoang tìm đồ ăn ngon thì biết chị đang phơi tương, nhưng không biết chị dùng bột gạo quý giá để làm mốc. Nếu biết, chắc cô bé xót của c.h.ế.t mất.
Mùa xuân này hạn hán, rau dại không mọc nổi, duy chỉ có rau củ khởi (cẩu kỷ) mọc hoang hai bên mương nước là vẫn xanh tốt. Thời gian này, món rau chính của Hứa Minh Nguyệt là rau củ khởi.
Nghĩ đến Triệu Hồng Liên đang mang thai, ngày nào Hứa Minh Nguyệt cũng đ.á.n.h thêm trứng vào canh rau. Trứng ở đâu ra? Chính là trứng vịt hoang nhặt được trong bụi lau sậy ngoài bãi sông.
Thực tế, ngoài bãi sông không chỉ có trứng vịt trời mà còn có trứng vịt nhà của đại đội bộ nuôi. Thời buổi người còn không đủ ăn, lấy đâu ra thóc cho vịt. Vịt được chăn thả tự nhiên, ăn bèo tấm, tôm cá, ốc, trai ngoài bãi sông. Ban ngày vịt ở ngoài bãi, nên người lớn trẻ con đi đào sen, bắt cá thi thoảng vẫn nhặt được trứng vịt to hoặc trứng vịt trời trong bụi cỏ. Với người lớn lên bên sông nước như Triệu Hồng Liên, chuyện này chẳng có gì lạ.
Nhắc đến trứng vịt, Hứa Minh Nguyệt cũng muốn nuôi vài con gà vịt trong sân để chủ động nguồn trứng. Nhưng khốn nỗi, thời điểm này gà vịt không phải muốn nuôi là nuôi. Đây là năm thứ hai hạn hán, mất mùa liên miên. Ai nuôi gà vịt nghĩa là nhà đó có dư lương thực.
Tuy nhà nào cũng ngầm giấu ít bột củ sen, bột sắn dây, nhưng đó là "luật bất thành văn", đóng cửa bảo nhau ăn uống tẩm bổ thì không sao. Chứ nuôi gà vịt quang quác suốt ngày chẳng khác nào thông báo cho cả làng: "Nhà tao có nhiều lương thực lắm, mau đến trộm, đến cướp đi!"
Thế nên trừ đại đội bộ nuôi công khai, tư nhân giờ chẳng ai dám nuôi. Người còn nuôi chẳng xong, lấy đâu ra đồ cho gia cầm ăn?
Hứa Minh Nguyệt không dám lấy quá nhiều đồ ra bồi bổ cho anh em Phượng Đài, nhưng phần của cô và bé A Cẩm thì không bao giờ thiếu, ít nhất mỗi ngày một quả trứng.
Đã hứa với Kỹ thuật viên Mạnh là có món ngon sẽ chia phần, nên anh cứ ngỡ sắp được ăn sủi cảo, mì sợi hay bánh bột lọc gì đó. Đến đây đã gần nửa năm, nếu không nhờ Hứa Minh Nguyệt thỉnh thoảng cho mớ rau đúng vụ, anh cũng sắp quên mất mùi vị thức ăn bình thường rồi. Vì thế, anh bắt đầu mong chờ bát mì sợi - món ăn vốn dĩ rất bình thường trước kia.
