Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - 15
Cập nhật lúc: 13/09/2025 05:18
Ta đổ canh vào hộp cơm của lão gia, còn xếp thêm một đĩa đậu khô trộn tuyết lý hồng, vừa được tổ mẫu theo phương pháp phu nhân chỉ mà làm ra. Món ấy thanh đạm mà khai vị.
Theo sau phu nhân mang cơm ra tiền quán, vị lão gia nọ đang cùng thiếu gia chuyện trò vui vẻ. Thấy chúng ta bước tới, ông lập tức đứng dậy tạ ơn và định trả tiền. Phu nhân không nhận túi bạc, chỉ liếc mắt ra hiệu cho thiếu gia, thiếu gia liền cười, nhận lấy bạc rồi trả lại:
"Phu nhân của tướng quân sức khỏe quan trọng, lần này coi như mừng đầy tuổi cho tiểu công tử quý phủ, nếu hợp ý, xin mời thường lui tới."
Vị lão gia nho nhã kia, hóa ra chính là Trang đại tướng quân của thành cũ Ninh Cổ Tháp. Thiếu gia nói, tướng quân nghĩ bản thân sát nghiệp quá nặng, nên phu nhân khó mang thai. Nay có được quý tử, dù thân thể yếu nhược cũng kiên quyết tự mình nuôi dưỡng.
Nhưng phu nhân vốn thân thể bạc nhược, sữa chẳng đủ. Có kẻ từng phục vụ trong phủ bị lưu đày kể lại, ở phương Nam, những thai phụ thiếu sữa thường được nấu canh đậu phụ cá chép để tăng sữa.
Nghe bọn mưu sĩ nói rằng cuối phố thư viện có một quán chuyên đậu phụ do nhà lưu dân mở, tướng quân mới thân chinh đến tìm.
Vài hôm sau, người trong phủ tướng quân lại ghé quán, có lúc thiếu gia được sai mang hộp cơm tới, rồi dần dà chẳng thấy bóng dáng thiếu gia đâu nữa. Nghe nói trong phủ có biểu muội của phu nhân, thiếu gia và biểu tiểu thư rất hợp tính, thế là hắn liền trốn luôn trong phủ tướng quân.
Gió xuân càng ngày càng ấm. Ta theo chân phu nhân học tính sổ sách, thực quán bắt đầu có lãi. Ta thấy tiểu thư ngồi xổm ngoài sân, viết vài chữ nguệch ngoạc trên đất, rồi kéo tai Tiểu Hoàng dạy học. Tiểu Hoàng nhăn mặt, rũ mắt nhìn ta, rên ư ử cầu cứu.
Ta bèn thưa với phu nhân:
"Chi bằng gửi tiểu thư vào thư viện học, chớ phụ tấm linh tuệ trời ban."
Hôm sau, ta mang theo hai con cá khô, bốn miếng đậu phụ tươi, dắt theo tiểu thư tới thư viện. Nơi ấy chẳng lớn, học trò cũng không nhiều. Tuy rằng không cấm cửa ai, nhưng phần lớn đều là hài tử của các nhà phú hộ hay quan viên bản xứ.
Thư viện nhỏ như tổ chim, nhưng lại có một vị viện trưởng. Ngoài ông ra, đại đa số phu tử đều là quan viên lưu đày như lão gia nhà ta.
Viện trưởng họ Liễu, tuổi quá cao, cao đến nỗi không ai nhớ rõ ông đã có mặt ở nơi này từ bao giờ, cũng chẳng rõ vì sao lại ở đây.
Chỉ biết đến cả thống lãnh giữ thành cũng phải nể ông ba phần.
Bởi lẽ, mấy mươi năm ông làm viện trưởng nơi đất hoang lạnh lẽo này, lại có thể đào tạo được hai vị tú tài. Một trong số đó còn thi đậu cử nhân, vào làm mưu sĩ trong phủ Thân vương ở Hoàng Long phủ, được vương gia rất mực trọng dụng. Về sau, vị ấy hồi hương, dùng tiền mua lại ngôi nhà cuối phố Đinh Hương mới xây ở thành Ninh An, biến thành thư viện để báo ân.
Sóng nước sông Hải Lãng dập dềnh lên xuống, qua bao đời tướng quân, quan lại đến cai trị Ninh Cổ Tháp đều bởi một câu khen ngợi từ triều đình:
“Giáo hóa hữu công.”*
(Người dạy dỗ (cha mẹ, thầy cô, cấp trên…) đã có công cảm hóa, giáo dục người dưới rất tốt, khiến họ trở nên có đạo đức, hiểu lễ nghĩa, hay có tiến bộ rõ rệt.)
Thế là chẳng ai dám bạc đãi vị viện trưởng già kia.
Chính thư viện duy nhất này giúp con cháu quan lại nơi biên cương có chốn học hành lễ nghĩa, phân biệt với đám dân đen bán mặt cho đất, hay tội nhân bị lưu đày. Cũng giúp hài tử nhà thương nhân biết mặt chữ, biết tính sổ. Biết đâu ngày nào đó, tổ tông phù hộ, nhà ấy lại xuất ra được một tú tài, dù không thì đồng sinh cũng được.
Trong cái nơi mà chữ nghĩa còn khan hiếm hơn cả lương thực này, cũng có thể mạnh miệng nói rằng:
“Nhà ta cũng là môn đình thư hương.”
20
Gần đây, ngày nào cũng chẳng thấy bóng dáng thiếu gia đâu. Mỗi sáng đưa tiểu thư đến thư viện xong liền biệt tăm biệt tích. Có người nói thấy thiếu gia cùng biểu tiểu thư phủ Tướng quân cưỡi ngựa dạo xuân.
Ta cũng không hiểu nổi, rõ ràng chưa đến Đoan Ngọ, mà lại đi dạo xuân trong cái gió đầu xuân lạnh thấu da có thể rạch rách mặt người này. May mà thực quán đã vào guồng, có hay không có chiêu bài kia thì việc buôn bán vẫn thịnh như thường.
Chỉ là gần đây ông nội tổ phụ thường ngẩn ngơ cầm điếu thuốc ngước nhìn trời. Cả đời ông gắn bó với đất đai, tuy hiện giờ có kế sinh nhai ổn định hơn, ông vẫn canh cánh mảnh ruộng vài thửa đồi nhà mình.
Ta bèn thưa với phu nhân rằng đã đến lúc xuân canh, muốn về quê một chuyến chăm sóc ruộng nương, tiện thể xem thử mấy củ hành tổ mẫu năm ngoái vùi xuống có mọc được không, nếu thu được thì đưa lên thành dùng cho quán, cũng tiết kiệm được chút chi phí.
Ta và tổ phụ lên đường, vì sợ quán vắng người hỗ trợ, cô cô ta liền cho gọi cháu nội bên chồng – A Bố – vào thành làm tiểu nhị phụ giúp. Bên thông gia mừng hơn bắt được vàng, vừa được ăn no, vừa học được tay nghề, còn hơn ở thôn quê chẳng có tương lai.
Lão gia nhà họ Ngô, chẳng rõ là nhờ ánh sáng của phu nhân hay thiếu gia, được điều sang làm tiên sinh ở Thư viện Đinh Hương. Lúc không có tiết dạy, ông cũng thường qua thực quán phụ một tay, khiến gương mặt phu nhân thêm rạng rỡ.
Không kịp báo với tiểu thư, ta và tổ phụ liền ngồi xe la mà A Bố đưa về quê. Xe vừa rời khỏi thành chưa được mấy trăm trượng, đã nghe tiếng Tiểu Hoàng đuổi theo xe mà tru inh ỏi. Ta đành nhảy xuống, túm cổ nó lôi theo về quê.
Bình Sơn thôn, quả thật đúng như tên gọi — đồng cỏ mênh m.ô.n.g chẳng thấy bến bờ. Đất nơi đây thì mặn, nước lại lạt, chẳng ngọt ngào gì.
Đầu hạ, dã hoa nở rộ như châu ngọc rải trên lụa biếc, hồ xanh, lau trắng lấp loáng bóng nước. Thế nhưng nước hồ ấy chẳng uống được, mà lau kia cũng chẳng ăn được. Cảnh đẹp như tranh mà lại bị vứt ở nơi biên tái hẻo lánh, thực đáng tiếc thay. Nếu đặt ở Kinh thành, ắt đã là thắng cảnh cho văn nhân mặc khách ngâm thơ vẽ tranh.
Giống như những thôn làng lác đác quanh Ninh Cổ Tháp, dân trong thôn phần lớn trồng bắp, đậu tương, thêm chút rau quả hợp đất như đậu đũa, dưa chuột.