Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 150: Chuyến Tàu Phương Bắc 1
Cập nhật lúc: 05/11/2025 07:09
Thành phố Thất Đài Hà ở phía nam giáp Cát Tây và Mẫu Đan Giang, phía bắc nối với Gia Mộc Tư và Hạc Cảng, phía đông liền với Song Nha Sơn, còn phía tây thì thông đến thành phố Cáp Nhĩ Tân. Nằm ở vùng cực bắc của đất nước, nơi đây nổi tiếng với tài nguyên khoáng sản phong phú, đặc biệt là than đá. Tên “Thất Đài Hà” bắt nguồn từ tiếng Triều Tiên. Trước khi thành phố được thành lập, người dân tộc Triều Tiên sống tập trung ở xã Hạnh Thụ, huyện Bác Lợi gọi vùng đất mình sinh sống là “Chí Đức Hòa” (phiên âm). Sau này khi thành lập thành phố, người ta giữ nguyên tên gọi ấy, chỉ sửa lại đôi chút để thành cái tên ngày nay – “Thất Đài Hà”.
Đích đến của chuyến đi lần này chính là xã Mã Trường, thuộc huyện Bác Lợi, một vùng quê còn giữ nguyên vẻ hoang sơ, nguyên sinh. Tuy nhiên, tàu hỏa chỉ đi đến huyện Bác Lợi, phần đường còn lại phải chuyển sang xe khách để vào trong. Phiền phức thật, chẳng hiểu trước đây lão Văn đi mấy nơi thế này bằng cách nào. Nghĩ mà xem, ông già ấy đúng là đi đến đâu lừa đến đó, từ nam chí bắc, nơi nào cũng để lại “dấu ấn lừa đời” huy hoàng.
Sáng hôm sau, gần trưa tôi mới bò dậy. Thu dọn kem đ.á.n.h răng, bàn chải, mấy đồ rửa mặt linh tinh, nghĩ bụng chắc cũng nên mang theo vài lá bùa để phòng thân, lỡ có chuyện bất trắc còn có cái dùng. Tính ra trong hai tuần này không có ngày rằm, thế nên tôi không mang theo gương nhỏ. Sau khi nhét hết mấy thứ đó vào cái túi du lịch cũ từng dùng hồi đại học, tôi khoác lên vai, chào qua loa vợ chồng Bào Long rồi ngậm điếu t.h.u.ố.c xuống tầng, bắt taxi đi luôn.
Đến Phúc Trạch Đường, tôi suýt nữa bật cười, chú Văn hôm nay ăn vận cứ như đi nghỉ mát. Áo sơ mi caro màu mè, tóc đã hoa râm nhưng chải chuốt bóng mượt, vẫn kiểu rẽ ngôi “sét đánh” đặc trưng. Người ta nói: “Giàu mặc da, nghèo mặc bông, còn đần thì mặc đồ thể thao.” Nhìn bộ dạng của ông ấy, tôi vừa buồn cười vừa thấy yên lòng. Đúng là kiểu đi đâu cũng phải ra vẻ phong độ mới được.
Lão thần côn này có vẻ như tâm trạng đã khá hơn, thấy tôi đến thì gật đầu một cái, hỏi xem đồ đạc đã chuẩn bị đầy đủ chưa. Tôi cũng gật đầu đáp lại, may mà ba lô khá to. Thế là ông ấy lại bắt tôi mang thêm một đống dụng cụ: nào là la bàn phong thủy, thước dây, tờ giấy dính nước cơm để vẽ bùa, chu sa, rồi cả kiếm tiền đồng.
Đống đồ đó đúng là nặng kinh khủng, đeo lên vai một lúc mà hai vai tôi như muốn rụng rời. Mọi thứ chuẩn bị xong thì đã hơn hai giờ chiều. Chuyến tàu của chúng tôi là K7026, khởi hành lúc hơn bảy giờ tối, còn đến năm tiếng nữa. Chú Văn bảo tôi tranh thủ nghỉ một chút, rồi tự mình hớn hở mở máy tính ra chơi đấu địa chủ, chắc biết rằng lên núi sẽ chẳng có mạng mà chơi, nên giờ phải chơi cho “đã đời” trước.
Còn tôi thì làm sao mà nghỉ được. Ông ấy chỉ lo đ.á.n.h bài, chẳng nghĩ gì đến việc đi xa như vậy, trong phòng lại có đầy tượng Phật, chẳng lẽ không thắp nén hương cho yên lòng sao? Tôi lấy ra một bó hương, thành tâm dâng lên mỗi vị ba nén, trong lòng thầm khấn: Chư Phật Bồ Tát phù hộ, chuyến này xin đừng để xảy ra chuyện gì nữa.
Thắp xong, tôi quay lại nhìn, chú Văn vẫn đang cười nham nhở, vừa hô vừa ném bom trong ván bài. Tôi chỉ biết cười khổ, lão già này chắc còn chưa biết ai sẽ ngồi đối diện chúng tôi trên tàu đâu. Nếu mà biết, e rằng chẳng cười nổi như thế nữa.
Rảnh rỗi chẳng có việc gì làm, tôi chợt nghĩ không biết giờ này Thạch Đầu có tiết dạy không. Cũng chẳng bận tâm, liền nhắn cho anh ta một tin báo rằng mình với lão Dịch sắp biến mất hai tuần, về rồi liên lạc lại.
Không lâu sau, đối phương nhắn lại vỏn vẹn mấy chữ: Đi đường bình an, có việc thì gọi điện.
Tôi cất điện thoại vào túi, rồi lấy trong ba lô ra một gói khoai tây chiên. Tiện tay, tôi lại từ kệ sách của lão thần côn lôi xuống quyển Táng Kinh. Dù sao cũng nên chuẩn bị trước, đọc qua một chút vẫn hơn là chẳng biết gì. Nói ra thì cũng thấy buồn cười, hồi còn đi học, tôi thuộc dạng người mà đến truyện tranh còn lười đọc chữ, vậy mà bây giờ lại phải cặm cụi ôm lấy một quyển sách toàn văn ngôn cổ, đọc từng câu từng chữ đến nhức cả đầu. Con người ta, đúng là chỉ khi bị ép vào đường cùng mới chịu cố gắng thật sự.
Phải nói rằng trong giới thầy âm dương của Bạch phái từng xuất hiện không ít nhân vật tài năng. Trong số đó, Quách Cảnh Thuần thời Tây Tấn chính là bậc kỳ tài nổi bật nhất. Ông tinh thông thuật địa lý âm dương, cả đời làm nên nhiều chuyện mà người thường chẳng thể làm được. Về cuối đời, ông dốc hết tâm huyết và tri thức viết ra bộ “Táng Kinh”, từng chữ từng câu đều là tinh hoa, trong đó ghi chép tường tận các bí pháp về việc chôn cất mộ phần, đủ để cho hậu thế nghiên cứu hàng trăm năm không hết. Một cuốn sách chân chính đã nuôi sống biết bao thầy âm dương trong nghề, thậm chí cả đám trộm mộ cũng nhờ đó mà phát tài.
Ngày nay, tuy bản sách này vẫn có thể tìm thấy trên thị trường, nhưng đa phần đều không đầy đủ, chỉ là phần nhỏ trong tổng thể mà thôi. Ngay cả quyển của lão Văn cũng vậy, so với những bản đăng trên mạng thì đầy đủ hơn, nhưng vẫn là bản khuyết thiếu. Có lẽ đó chính là “thiên cơ bất khả lộ” chăng.
Thời gian trôi qua lúc nào chẳng hay, tôi đang mải đọc sách, bỗng cảm giác có ai vỗ vai. Ngẩng đầu lên, hóa ra là chú Văn. Ông ấy đã chuẩn bị xong, nói với tôi:
“Đến giờ rồi, đi thôi.”
Tôi nhìn đồng hồ, quả thật, đã gần sáu giờ. Thấy tôi vẫn đang cầm quyển “Táng Kinh”, chú Văn cười khẽ:
“Khá đấy, biết chịu khó học rồi à? Thích đọc thì mang theo, nhưng nhớ đừng làm hỏng là được.”
Tôi gật đầu, vậy càng đúng ý tôi. Thế là tôi nhét quyển “Táng Kinh” vào ba lô, đeo lên vai rồi cùng chú Văn bước ra cửa. Khóa cửa xong, hai chúng tôi tới ven đường đứng đón taxi.
Nói cũng thật trùng hợp, bên kia đường, hai người của Dịch Phúc Quán cũng đang đứng chờ xe. Chú Văn vừa nhìn thấy lão Lâm liền hừ lạnh một tiếng, rồi bước ra mép đường, cố tình không thèm nhìn đối phương, lớn tiếng nói với tôi:
“Chú nói rồi mà, sao tự nhiên lại thấy xui xẻo thế? Thì ra là vừa ra khỏi cửa đã gặp phải sao chổi!”
Bên kia, chú Lâm và Dịch Hân Tinh nghe thấy giọng chú Văn mới phát hiện ra chúng tôi. Lão Dịch vừa định cất tiếng chào thì đã bị chú Lâm bịt miệng lại. Ông ta nặn ra một nụ cười giả tạo, giọng khinh khỉnh:
“Ơ, chẳng phải là ‘Văn thần côn’ đây sao? Sao thế, lại đi lừa người à?”
Chú Văn nghe xong, tức đến mức khóe miệng khẽ run, nhưng vẫn cố nén giận. Ông cười lạnh, đáp lại:
“Cũng lạ thật đấy. Ban đầu Chân tiên sinh chỉ muốn mời tôi đi giúp ông ấy xem lại phần mộ tổ tiên thôi, nhưng ngại làm mất mặt "ai đó", nên mới tượng trưng hỏi thêm. Kết quả là "ai đó" lại không biết điều, còn mặt dày đòi chen vào. Ông nói xem, loại người như thế sống trên đời còn có ý nghĩa gì nữa? Đúng không, Lâm già?”
Chú Lâm nghe xong liền bốc hỏa, chỉ thẳng tay vào mặt chú Văn quát: “Ông c.h.ử.i ai hả?!”
Chú Văn phá lên cười ha hả, rồi quay sang tôi nói:
“Ai lên tiếng thì người đó bị c.h.ử.i thôi! Tiểu Phi, cháu nói xem có lạ không, chỉ nghe có người nhặt được tiền, chứ ai đời lại có người đi nhặt c.h.ử.i bao giờ!”
Chú Lâm tức điên, xắn tay áo định lao tới đ.ấ.m cho đối phương một trận. Chú Văn cũng chẳng vừa, lập tức xắn tay áo hoa loè loẹt của mình lên, trông bộ dạng như muốn liều sống liều c.h.ế.t vậy.
Tôi thấy tình hình không ổn, hai lão già mất nết này giờ chẳng còn chút dáng vẻ đạo mạo thường ngày nào nữa, y như hai đứa trẻ cãi nhau, mà hễ cãi không lại là định động tay động chân. Chưa lên xe đã đòi đ.á.n.h nhau, thế lên tàu rồi chẳng phải loạn to sao?
Tôi vội vàng chạy tới ngăn chú Văn lại, còn lão Dịch thì cố hết sức giữ chặt chú Lâm, không dám buông tay. Tôi nhỏ giọng khuyên:
“Chú Văn à, người lớn không chấp kẻ nhỏ, đừng để mấy chuyện vặt vãnh thế này mà làm mất phong độ.”
Nhưng chú Văn vẫn gào lên:
“Đừng cản! Hôm nay mà không dạy cho lão ta một bài học, lão ta lại tưởng chú là ai chứ?!”
Dịch Hân Tinh cũng đang vất vả giữ người, mà miệng chú Lâm vẫn không chịu yên, gào lên:
“Bốc phét ít thôi, có lần nào ông đ.á.n.h thắng tôi chưa, ra vẻ cái gì!”
Thế là hai người họ lại lao vào khẩu chiến, một câu “lão già c.h.ế.t tiệt”, một câu “đồ rác rưởi”, cãi nhau om sòm. Người đi đường đều quay lại nhìn, ánh mắt vừa tò mò vừa ngạc nhiên. Tôi với Dịch Hân Tinh xấu hổ muốn độn thổ, đi theo hai ông thần côn này thật chẳng khác gì tự tìm nhục.
May sao, đúng lúc bọn họ đang mắng nhau đến đỏ mặt tía tai, thì từ xa có một chiếc taxi chạy tới. Tôi nhanh tay vẫy xe lại, nghĩ bụng lên xe nhanh còn kịp, tránh để loạn thêm. Thế là tôi vội bảo chú Văn lên xe, còn mình ngồi ngay ghế phụ phía trước.
Không ngờ vừa vẫy được xe, chú Lâm với lão Dịch cũng hớt hải chạy tới, rõ ràng là muốn tranh chiếc taxi này với chúng tôi. Nhưng chú Văn đâu có chịu thua, vừa thấy thế liền phốc một cái ngồi ngay lên ghế phụ, đóng sầm cửa lại rồi quát với tài xế: “Ra ga tàu! Nhanh lên!”
Ai ngờ chú Lâm vội chụp lấy tay nắm cửa, lớn tiếng nói với tài xế: “Tôi trả cậu một trăm, chở tôi đi, đừng chở ông ta!”
Chú Văn nghe vậy lập tức nổi đóa, cũng quát: “Tôi trả hai trăm! Lên đường ngay cho tôi!!”
Chú Lâm không chịu kém: “Tôi trả ba trăm! Chở tôi!!”
Chú Văn trợn mắt: “Tôi trả bốn trăm! Lái đi mau!!”
Chú Lâm lại hét: “Năm trăm! Đừng chở ông ta!!”
Chú Văn liền nhướng mày, nhếch mép cười gian: “Thế thì ông lên xe đi.”
Nói xong, ông ấy thản nhiên mở cửa bước xuống, vẻ mặt ranh ma đầy khoái trá, nhìn chú Lâm và Dịch Hân Tinh đang đứng ngẩn người mà cười như kẻ thắng trận.
Tôi thì chỉ muốn độn thổ cho rồi, không ngờ lão già này lại giăng bẫy người ta bằng chiêu trẻ con như vậy, mà còn hả hê đến thế, thật đúng là vừa xấu hổ vừa cạn lời.
Thế nhưng lão thần côn ấy đã bước xuống xe, tôi mà cứ ngồi lại thì coi sao được, đành xách ba lô xuống theo. Tài xế có vẻ sốt ruột, quay sang chú Lâm và lão Dịch nói giọng bực bội:
“Đi hay không thì nói một câu, không đi tôi chạy đây.”
Bên cạnh, chú Văn lại hả hê cười lớn, giọng đầy mỉa mai:
“Ha ha ha! Lão già kia, năm trăm tệ đó, ông đi mà ngồi cho sướng nhé! Vé khứ hồi từ Thất Đài Hà về Cáp Nhĩ Tân còn chẳng tốn tới chừng ấy đâu, ông mà bỏ ra từng đó chỉ để đi tới ga tàu, đúng là người có tiền, tôi theo không nổi rồi. Thôi, tôi chờ thêm lát nữa, đi xe mười tệ là được.”
Chú Lâm biết mình mắc mưu, nhưng giờ bị đẩy tới nước này, không đi thì mất mặt quá. Ông ta hầm hầm gọi lão Dịch lên xe, “rầm” một tiếng đóng cửa, chiếc taxi phóng đi trong làn bụi.
Chú Văn vui sướng nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, cười sảng khoái nói:
“Thật là hả dạ! Ha ha, sướng quá đi mất!”
Nhìn dáng vẻ đắc chí, gian manh của lão thần côn ấy, chẳng còn chút khí chất đạo mạo như lúc ông lên mặt giảng đạo lừa người nữa. Một lát sau, hai chúng tôi lại đón được một chiếc taxi khác. Trên xe, tôi chỉ biết thở dài, nhìn chú Văn đang ngồi ghế phụ huýt sáo khe khẽ, trong lòng nghĩ ông cứ đắc ý đi, lát nữa lên tàu, hai người phải ngồi đối diện cả đêm, xem còn cười nổi không.
