Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 162: Con Cóc Trên Nắp Quan Tài

Cập nhật lúc: 05/11/2025 07:11

Đám người được thuê tới đều là dân ở khu trại ngựa dưới chân núi. Vì nhà họ Chân giàu có nên chẳng ai chê việc này, trái lại còn tranh nhau làm. Mấy thanh niên ấy độ chừng hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi, da ngăm đen, người rắn chắc, cơ bắp cuồn cuộn, chỉ liếc qua là biết dân lao động thật sư. So với hai cái thân gầy nhẳng như que củi của tôi và lão Dịch thì quả thật đúng là trời với đất.      

Trời khi ấy chỉ vừa tảng sáng, sớm tinh mơ mà đã thấy quạ đen lượn quanh, khiến ai nấy đều cảm thấy có chút xui rủi. Nhưng biết làm sao được, mặt trời sắp ló rồi, chẳng thể trì hoãn thêm. Thấy vậy, chú Văn liếc mắt ra hiệu cho Chân Phú. Ông ta lập tức hiểu ý, quay lại dặn mấy người thợ chuẩn bị bắt đầu.

Hai lão thần côn trước tiên bảo tôi với lão Dịch trải một tấm ni-lông lớn ra đất, rồi moi từ trong ba lô ra một con gà quay, ba cái bánh bao, thêm một túi thịt đầu heo, bày ngay ngắn lên đó. Trong lư hương nhỏ, chú Văn cắm năm nén nhang, năm nén ấy cũng có ý nghĩa riêng. Ba nén cho người, thần và quỷ, hai nén còn lại để “định càn khôn”. Làm xong mọi thủ tục, chú Văn nhìn đồng hồ, thấy vẫn còn sớm so với giờ tốt đã chọn, bèn bảo mọi người:  

“Giờ nghỉ tạm hai mươi phút, ăn chút đồ khô đi. Trưa nay chưa chắc đã có thời gian ăn đâu.”    

Trong ba lô của lão Dịch toàn là lương khô, anh ta lôi ra chia bánh mì và xúc xích cho đám thợ phụ. Phát xong, lão Dịch đưa cho tôi, nhưng tôi lắc đầu. Bánh mì, mì gói với dưa muối, ba món “đặc sản ký túc xá” ấy hồi đại học tôi ăn đến phát ngán. Cuối tháng hết tiền, chỉ toàn dựa vào chúng mà sống, giờ nhìn thôi đã thấy ợ chua trong dạ dày.   

Còn mấy cây xúc xích loại rẻ tiền một tệ một cây kia càng khiến tôi ngán ngẩm. Tôi từng thích ăn lắm, cho đến một lần c.ắ.n mãi mà không đứt, soi ra mới thấy bên trong dính một búi tóc, suýt nữa nôn ngay tại chỗ. Cũng may tôi vẫn còn “gặp may”, nghe nói có người còn c.ắ.n trúng cả móng tay trong xúc xích cơ đấy. Đúng là xui tận mạng. 

Ăn no xong, chú Văn không buồn để ý đến chú Lâm đang ngồi bên cạnh, quay sang bốn anh em nhà họ Chân nói: “Bắt đầu đi, mọi người đứng vào vị trí. Ai cũng không được cười, nét mặt nghiêm túc.”    

Dì Chân liền truyền đạt, mọi người xếp hàng ngay ngắn. Chú Lâm thấy chú Văn ra vẻ làm bộ làm tịch thì bực mình, cũng mặc kệ, đứng ở sau hút t.h.u.ố.c cho qua chuyện. Tôi với lão Dịch vì là đồ đệ, cũng đứng vào chỗ của mình.

Chú Văn khạc đờm một tiếng rồi đọc to:  

“Các vị, hôm nay là ngày cụ Chân lại nhìn thấy ánh mặt trời, chuyển nhà đến nơi mới, là việc đại hỉ. Trước hết xin các nam nhân nhà họ Chân khấu đầu, lạy ba, khấu năm.”      

Bốn anh em nhà họ Chân cùng con cháu nghe vậy liền quỳ xuống trước mộ, cung kính khấu đầu vài cái. Xong xuôi, chú Văn bảo tôi lấy bếp lò ra, rồi cho vài tờ tiền vàng vào đốt. Việc đốt giấy cũng có nguyên tắc, không nên để tờ giấy cháy hết một lần, mà khi giấy đang cháy thì nhanh tay rút ra một ít rồi ném ra ngoài khoảng hai mét, ý là để phân phát cho những cô hồn cô quạnh bên ngoài, tránh việc chúng đến tranh tiền của chủ mộ.       

Nói thật, cái biệt danh “Văn Minh Bạch” hồi trẻ của chú Văn không phải gọi chơi. Dù tôi biết lão già này hay khoe khoang, nhưng những mánh lừa bịp kiểu này thì ông ấy lại làm rất khéo. Chú Văn nhíu mày, tay phải chắp thành một ấn “kiếm chỉ”, kẹp vớt mấy tờ tiền vàng đang cháy trong bếp lên, rồi phóng tay ném ra. Phải công nhận, hiệu ứng thị giác rất mạnh, khiến tôi liên tưởng đến mấy chiêu phóng cầu lửa trong game nhập vai.    

Lập tức, đám thợ khuân vác liền reo hò ầm lên, y như đang xem diễn tuồng. Ngay cả mấy anh em nhà họ Chân cũng thấy nở mày nở mặt. Còn tôi thì chỉ biết cười khổ, lão thần côn này đúng là liều thật, chẳng sợ bỏng tay. Nhìn kỹ thì hình như ông ấy xử lý hỏng rồi, vốn phải gắp vào chỗ giấy chưa cháy, nhưng có vẻ tuổi tác khiến tay nghề kém đi, lại gắp ngay vào phần đang rực lửa. Thế nên giờ đây lão già này đang giấu tay ra sau lưng, ngón tay cứ cọ qua cọ lại, rõ ràng đã bị bỏng, mà vẫn cố giữ mặt mũi, ra vẻ tiên phong đạo cốt.     

Tôi, lão Dịch, với chú Lâm đều đứng sau lưng chú Văn, thấy cảnh đó suýt nữa thì bật cười thành tiếng.  

Chú Văn quay đầu lườm chúng tôi một cái sắc như dao. Tôi và lão Dịch vội cúi đầu xuống, giả vờ nghiêm túc, riêng chú Lâm thì chẳng nể nang, vẫn đứng đó cười hả hê, rõ là đang chờ xem trò vui. Hai ông già đối mặt, ai cũng cứng đầu không chịu nhường ai. Cũng may còn biết lúc này không nên cãi nhau, kẻo mất mặt cả đám. 

Chú Văn hắng giọng, nghiêm trang nói với mọi người: 

“Con cháu hiếu thuận, tiền âm đã dâng, kính mong cụ Chân tha thứ bao dung! Xin mời mang địa khế ra!”  

Cái gọi là “địa khế” hay còn gọi là "mãi địa quyển", "minh khế", "địa phiếu" là một nghi thức trong thuật cải táng. Người ta nói “trần gian có khế ước nhà đất, âm gian có địa khế”, tức là mô phỏng lại việc mua bán đất ở cõi dương, dùng để làm khế ước tượng trưng giữa người sống và người c.h.ế.t, cũng như với các vị thần linh. Trong lễ dời mộ, nghi thức này cực kỳ quan trọng. 

Lúc ấy, chú Lâm rút từ trong áo ra hai tờ giấy vàng, lấy một tờ, chẳng thèm đợi chú Văn chỉ đạo, đã tự mình bước tới trước bếp lửa, rồi dõng dạc nói:

“Địa khế đã ở đây, chư vị hãy khấu đầu bái lạy.”     

Người nhà họ Chân vội quỳ xuống, đám thợ phụ đào mộ vì đã nhận tiền công hậu hĩnh của nhà họ Chân nên cũng coi như nghi thức, đồng loạt quỳ rạp xuống đất.

Thấy mọi người đã quỳ hết, chú Lâm hắng giọng, rồi trịnh trọng cất tiếng đọc, giọng vang dội mà trang nghiêm:   

“Ngày mồng bốn tháng Năm năm Kỷ Sửu, tín nam Chân Phú cùng gia quyến, dám cáo bạch trước chư vị Thổ Địa thần linh, Ngũ Phương Đại Đế, Ngũ Nhạc Tứ Độc, sơn xuyên bách linh, Tam Khâu Ngũ Mộ, cùng gia tiên tông trưởng: Nay gặp ngày lành tháng tốt, thành tâm thiết lễ, bày chút lễ mọn, kính mong chư thần thương tình giáng phúc, nhận lấy chút lòng thành, ban cho ân huệ tốt lành. Nay nhờ cơ duyên, phải cải táng sang nơi khác, e rằng việc đào xới, xây đắp hôm nay có thể kinh động tới thần linh đất đai, làm lay chuyển long khí, có chỗ sơ suất mà x.úc p.hạ.m âm giới; hoặc phạm Thiên Cương, hoặc động Khuê Giáp, hoặc kinh động Thổ Phủ, hoặc nghịch thiên thời, chuốc lấy tai ương vô cớ. Nay cúi xin chư vị tha thứ, ban phép hộ trì, khiến mọi hung họa tiêu tan, người c.h.ế.t được yên nghỉ, người sống được bình an.”

Phải nói thật, giọng của chú Lâm trầm ấm đến lạ, còn có phần từ tính hơn cả chú Văn. Tờ “địa khế” ấy chính do ông tự tay viết, chữ nghĩa mạch lạc, lời văn trang trọng, mà khi đọc lại còn chan chứa cảm xúc. Kỳ lạ hơn cả là giọng chú Lâm lại giống hệt thầy Triệu Trung Tường trên chương trình Thế Giới Động Vật, khiến chúng tôi đứng phía sau nghe mà phải cố nhịn cười.      

Đọc xong, chú Lâm ném tờ “địa khế” vào chậu lửa, lửa bùng lên bao quanh tờ giấy vàng rực rỡ, sau đó ông lớn tiếng hô: “Lễ tất! Bắt đầu động thổ!”    

Nghe thấy câu đó, đám thợ phụ liền đứng dậy. Vì đây là lễ dời mộ nên mọi vật của mộ cũ đều không được giữ lại. Dân miền núi vốn thật thà, nhưng cũng cực kỳ mê tín, ai nấy đều kính sợ chuyện âm hồn. Trước khi làm, họ còn khom người vái mấy cái về phía bia mộ, rồi mới vung búa đập mạnh. Bia đá trắng vỡ nát, lộ ra phần đất mộ bên dưới; mấy người cầm cuốc, cầm xẻng, bắt đầu đào.  

Khi họ bắt đầu đào mộ, chúng tôi vẫn đứng bên cạnh quan sát. Chỉ thấy lớp đất bên trên khô ráo, nhưng mới xúc xuống vài nhát cuốc, đất bên dưới đã dần trở nên ẩm ướt. Sắc mặt của chú Văn và chú Lâm lập tức sa sầm, trông vô cùng nghiêm trọng. Tôi và Lão Dịch cũng không khá hơn, ai nấy đều có cùng một vẻ căng thẳng, không biết lát nữa khi đào đến quan tài, sẽ trông thấy cảnh tượng gì。 

Người sống thì hướng lên cao mà đi, còn người c.h.ế.t thì chôn sâu xuống lòng đất, vì thế phải đào khá lâu mới có thể chạm đến. Chú Văn và chú Lâm châm thuốc, cau mày hút từng hơi nặng nề. Dì Chân đứng bên cạnh lo lắng hỏi:  

“Anh Văn, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Em nhớ hồi đó chỗ đất này đâu có như thế?”

Chú Văn lắc đầu, đáp:  

“Khó nói lắm, chưa thấy quan tài thì chưa thể kết luận gì được。”

Không bao lâu sau, chợt nghe đám thợ đào mộ hô lớn: “Đào tới rồi!!”

Nghe thấy thế, chúng tôi vội chạy đến mép huyệt, cúi đầu nhìn xuống. Quả nhiên, một chiếc quan tài gỗ trắc đen bóng đã lộ ra phần nắp. Chỉ là phần đất xung quanh quan tài đã ướt đẫm, gần như hóa thành bùn loãng. 

Chú Văn lập tức bảo mấy người thợ mang tấm vải bạt chống thấm đã chuẩn bị sẵn ra, rồi dùng cọc tre buộc bốn góc, dựng che lên miệng huyệt. Lúc này trời đã hơn năm giờ sáng, mà quan tài tuyệt đối không được để ánh mặt trời chiếu vào, nên phải che kín ngay。  

Chú Lâm cũng không rảnh rỗi, ông quay sang bảo người nhà họ Chân:

“Mau quỳ xuống, nghênh đón cụ cố trở về。”

Người nhà họ Chân liền đồng loạt quỳ xuống. Chú Văn khẽ gật đầu với đám thợ phụ, ra hiệu có thể bắt đầu. Mấy chàng trai lực lưỡng liền lấy ra mấy sợi dây thừng to, cẩn thận buộc quanh quan tài, buộc chặt đến mức không hở chút nào, chỉ mong có thể nhấc lên thật vững vàng, không nghiêng không lệch。

Chờ khi mọi thứ chuẩn bị xong, chú Văn hô lớn một tiếng: “Nhấc quan, phát tài!” 

Ngay lập tức, mọi người đồng loạt dồn sức kéo. Quan tài vừa tách khỏi lòng đất, một luồng hơi ẩm nặng nề đã toát ra xung quanh, mang theo thứ mùi mốc meo hôi hám như vật gì đó đã thối rữa lâu ngày.    

Tôi và lão Dịch cũng vội chạy lên giúp sức. Hai chúng tôi cầm lấy hai đầu cọc tre giữ tấm bạt chống thấm, che theo hướng quan tài di chuyển, cùng bước đều với mọi người. Khi chiếc quan tài được đặt ngay ngắn trước mặt người nhà họ Chân, tôi và lão Dịch lại nhanh chóng chống lại tấm bạt cho vững, rồi trở về đứng bên cạnh hai lão thần côn.    

Lúc này, chú Văn và chú Lâm bắt đầu tỉ mỉ quan sát chiếc quan tài. Nhìn qua thì chẳng có gì khác thường, đó là một cỗ quan tài gỗ trắc rất tốt, chỉ là nằm trong lòng đất ẩm lâu năm nên lớp sơn đen bên ngoài gần như đã bong tróc hết, từ thân quan tài bốc lên một mùi ẩm mốc gay gắt khiến người ta khó chịu. 

Không bao lâu sau, hai lão thần côn lập tức phát hiện có điều bất ổn. Chỉ thấy trên nắp quan tài có một mảng bùn ướt dính chặt, kỳ lạ là lau mãi cũng không sạch. Hai người họ quay đầu ra hiệu cho tôi và lão Dịch tiến lên. Trong lòng tôi thầm khinh bỉ hai lão thần côn này, toàn sai người làm việc dơ bẩn, nhưng cũng chẳng thể không ra tay.    

Tôi và lão Dịch đành lấy d.a.o khắc trong ba lô ra, bắt đầu cạy lớp bùn ướt đó.  

Khối đất kia không cứng lắm, nhưng lại chẳng tài nào cạy ra được, cứ như dính chặt vào nắp quan tài vậy. Tôi dùng d.a.o khắc rạch thử một đường, lớp đất bên ngoài rơi xuống từng mảng, thế nhưng khi mũi d.a.o đ.â.m sâu vào bên trong thì lại chạm phải thứ gì đó vô cùng cứng rắn. Tôi gật đầu ra hiệu cho lão Dịch, hai đứa cùng nhau dùng d.a.o bắt đầu gọt kỹ khối đất đó ra.   

Càng gọt, cả hai càng thấy không ổn, lớp đất dần dần bong hết, để lộ vật gì đó ẩn bên trong, hình dáng ngày một rõ ràng hơn. Cái thứ bị bọc trong đất này tuyệt đối là vật do con người tạo ra! Dáng vẻ nhìn thế nào cũng giống một bức tượng nhỏ. 

Khi tôi và lão Dịch cạo sạch hết lớp đất bên ngoài, tất cả mọi người xung quanh đều kinh hãi thốt lên. Trên nắp quan tài, chẳng biết từ bao giờ lại gắn chặt một pho tượng đá hình… con cóc!    

Bức tượng này không lớn, chỉ rộng chừng bằng bàn tay. Quả thật là một con cóc, mà không, là hai con: một con lớn ở dưới, một con nhỏ nằm chồng lên lưng nó. Từng chi tiết đều tinh xảo như thật, hai má phồng lên như đang kêu “ộp ộp”, mắt thì trống hoác không tròng, miệng cả hai con đều há to. Một con ngửa lên trời, một con úp xuống đất. Đặc biệt, bốn chân của tượng cóc bám chặt lấy nắp quan tài, xung quanh đều ẩm ướt, nước rịn ra từng giọt. 

Mẹ kiếp, rốt cuộc đây là cái quái gì vậy?!

MonkeyD

Email: [email protected]

Liên hệ hỗ trợ: https://www.fb.com/monkeyd.vn

DMCAPROTECTED

Mọi thông tin và hình ảnh trên website đều được bên thứ ba đăng tải, MonkeyD miễn trừ mọi trách nhiệm liên quan đến các nội dung trên website này. Nếu làm ảnh hưởng đến cá nhân hay tổ chức nào, khi được yêu cầu, chúng tôi sẽ xem xét và gỡ bỏ ngay lập tức. Các vấn đề liên quan đến bản quyền hoặc thắc mắc khác, vui lòng liên hệ fanpage: MonkeyD.