Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư - Chương 216: Dùng Tiền Đổi Mạng
Cập nhật lúc: 12/12/2025 09:00
Trời đã dần sáng. Các ông lão tập thể d.ụ.c buổi sáng đã sớm ra ngoài duỗi tay duỗi chân, chuẩn bị đến công viên đ.á.n.h thái cực và tán gẫu với mấy bà lão. Còn những người lao động siêng năng thì mang theo quầng thâm mắt thật to, lơ mơ bò dậy để bắt đầu một ngày mệt nhoài mới.
Trong gian phòng phía trong của Phúc Trạch Đường, ba đứa chúng tôi tuy trên người đều bị thương, cộng thêm suốt đêm không ngủ, nhưng vẫn mở to mắt, chăm chú nghe hai ông già kể lại quãng thời gian trống vắng cách đây ba mươi năm.
Chú Văn kể rằng ba mươi năm trước thật sự không giống bây giờ. Khi họ đến Thất Đài Hà, vì là người từ nơi khác đến nên ngay cả việc thuê phòng trọ cũng thường xuyên bị hỏi han, không biết đã bị coi như kẻ lang thang lưu động bao nhiêu lần. Hơn nữa người làm nghề của họ cũng không dám để lộ thân phận, sợ bị bắt rồi đ.á.n.h cho cái mác “truyền bá mê tín phong kiến”, thành thầy pháp thầy mo bị phê phán. Vì vậy hai người đành giả vờ như chẳng có việc gì, ngày ngày lang thang ngoài phố, chuyên đến những nơi mấy ông bà già tụ tập tán chuyện để hóng hớt. Bởi thời đó so với lớp trẻ, người lớn tuổi mới là những người biết nhiều chuyện. Lúc ấy đâu có internet, hiện đại nhất cũng chỉ có điện báo, nhưng sức lan truyền bằng miệng vẫn luôn mạnh nhất, nhờ đó họ cũng lần ra được không ít tin tức.
Hai người ban ngày dò hỏi, ban đêm hành động. Dù điều kiện gian khổ nhưng tuổi trẻ lại chịu khó, nên cũng chẳng để tâm, cứ tiếp tục sống kiểu làm việc tốt mà hầu như chẳng để lại tên tuổi. Mãi đến một năm sau, họ gần như đã đi khắp những vùng quanh Thất Đài Hà, sắp sửa chuyển sang nơi khác. Ngay lúc chuẩn bị rời Thất Đài Hà, chờ tàu ở ga, họ tình cờ nghe người bản địa tán chuyện, nói gì mà “trại ngựa Bác Lợi bị thần núi quấy nhiễu”, nghe cứ huyền hoặc mà kể lại rành rọt lắm.
Vốn dĩ chú Văn và chú Lâm không có mục tiêu cố định, chỉ lang bạt khắp nơi. Nghe đến chuyện “thần núi quấy phá”, cả hai lập tức hứng thú, quyết định đổi hành trình, đi trước đến huyện Bác Lợi.
Lúc ấy, huyện Bác Lợi vẫn còn là một huyện nhỏ nghèo khó, mức sống của người dân chỉ vừa đủ no ấm. Đừng nói đến phương tiện đi lại, ngay cả mấy chiếc máy cày hiếm hoi cũng đều là tài sản của đội sản xuất. Sư huynh đệ hai người đến được Bác Lợi, hỏi đường tới trại ngựa. May mà người thời ấy tuy nghèo nhưng chân chất, đúng lúc họ gặp một bác nông dân địa phương làm việc ở trại ngựa, thế là cả hai liền lên chiếc xe lừa của bác ấy để vào trại.
Trên đường đi, hai người giả vờ trò chuyện rồi hỏi xem gần đây trại ngựa có chuyện lạ gì không. Người quê thật thà, có gì nói nấy, lập tức kể rằng quả thật có một việc kỳ quái, cụ cố nhà họ Chân trồng ngô trên núi đã c.h.ế.t rồi. Cụ ấy vốn nổi tiếng là thọ trong cả vùng mười dặm tám làng, vậy mà lần này c.h.ế.t lại rất lạ: c.h.ế.t trong tư thế đang cười, hơn nữa còn mất một con mắt. Nhà họ nghèo, không mua nổi quan tài, đến giờ vẫn còn để thi thể trong nhà.
Nghe tới đây, tôi sững lại, mẹ nó, chẳng phải đang nói về lão thợ lặn đó sao? Vừa nghĩ đến cái xác ướt sũng ấy là tôi nổi da gà. Dịch Hân Tinh cũng lập tức nhớ lại “nụ hôn đầu chua chát” của mình, suýt thì buồn nôn.
Vừa nhắc đến nhà họ Chân, chú Lâm bên cạnh liền thở dài, rồi nói với chú Văn: “Ông kể cho bọn trẻ mấy chuyện này làm gì? Nói ra có ích gì không?”
Chú Văn liếc chú Lâm một cái, hiếm hoi thay lại không cãi nhau như thường lệ, chỉ thở dài đáp: “Đã bảo là nói thật với bọn trẻ thì phải nói hết. Giấu trong lòng bao nhiêu năm rồi, ông không thấy khó chịu sao?”
Chú Lâm lắc đầu, không nói gì nữa, cúi xuống châm điếu t.h.u.ố.c khác.
Chú Văn kể rằng mối duyên giữa hai người họ và nhà họ Chân bắt nguồn từ chính chuyện ấy. Khi họ tìm đến nhà họ Chân thì trời đã xế chiều. Lúc đó nhà họ Chân rất nghèo mà người lại đông, còn dì Chân — mẹ nuôi của tôi và lão Dịch — khi ấy mới chỉ là cô bé mười mấy tuổi.
Ông cụ Chân lúc đó cũng chưa lẫn, vẫn còn đang tuổi trung niên. Cả nhà đang canh tang thì bỗng có hai thanh niên lạ mặt, quần áo phủ đầy bụi đường, tìm tới. Ông Chân liền bước ra hỏi xem hai người trẻ tuổi có chuyện gì. Phải nói rằng thời ấy cả nước đang vào thời kỳ trăm thứ bề bộn, chuyện mê tín phong kiến bị xem là vô căn cứ, nhưng ở vùng núi heo hút như này thì vẫn còn rất phổ biến. Hai sư huynh đệ đã rong ruổi ở Hắc Long Giang hai năm, biết cách ăn nói, bèn bảo với nhà họ Chân rằng họ là thầy âm dương từ nơi khác tới, nghe tin nhà có tang nên chủ động đến giúp lo liệu, tất nhiên là không lấy một xu, chỉ tích đức mà thôi.
Nhà họ Chân nghe vậy thì mừng lắm, trong lòng đang lo không có tiền thuê người làm ma chay, giờ lại có người tự tìm đến giúp, lại còn không nhận tiền. Tuy hai người trông còn trẻ, nhưng cũng xem như một sự an ủi, ông Chân liền rối rít cảm ơn rồi mời cả hai vào nhà.
Chú Văn nói: “Nhà họ Chân lúc đó nghèo lắm. Cả nhà lớn bé chen nhau sống trong cái lều to trên núi. Lũ trẻ thì đứa nào cũng chân trần. Không thể tưởng tượng được, thời ấy rồi mà họ còn chẳng có nổi bánh bột ngô để ăn. Hôm đó là mùa đông, tuyết phủ kín núi, đến dã thú còn sắp c.h.ế.t đói. Buổi tối hôm ấy, ông Chân lấy ra mấy củ khoai lang trong nhà hấp chín, đem cho chú với chú Lâm ăn. Cả nhà họ chỉ ăn một bữa một ngày, nên lũ trẻ chỉ đứng nhìn, mắt cứ dõi vào chỗ thức ăn.”
Nhìn ánh mắt ấy, chú Văn thực sự không chịu nổi. Cuối cùng đành mở balô mình ra, trong đó có ít thịt muối đổi bằng tem lương thực ở Thất Đài Hà.
Đều là người xuất thân nghèo khó, chẳng có gì mà câu nệ, thế là hai người lấy chỗ thịt muối ấy chia cho lũ trẻ ăn. Cả nhà họ Chân mừng đến phát sáng. Giữa mùa đông thế này, ngay cả Tết còn chưa chắc đã được ăn thịt, vậy mà hai người không chỉ giúp lo ma chay miễn phí, còn mang thịt đến cho bọn trẻ. Bảo sao ông Chân suýt nữa coi họ như thần tiên cứu khổ cứu nạn.
Thấy gia cảnh nhà họ Chân thật sự quá nghèo, chú Văn và chú Lâm cũng chẳng giấu giếm gì nữa, lôi hết những thứ có thể ăn được trong túi vải ra chia cho họ. Lúc chia thức ăn, chú Văn mới có thời gian quan sát kỹ hơn: trong nhà ngoài ông Chân là người lớn, còn lại toàn trẻ con. Nhỏ nhất chính là mẹ nuôi của tôi và lão Dịch, lúc ấy chỉ là một đứa bé con. Mấy cậu trai trong nhà thì đều nhỏ hơn hai sư huynh đệ một hai tuổi. Lớn nhất là cô cả — Chân Dĩnh — trông lớn hơn hai người họ chừng hai tuổi. Là chị cả nhưng lại là người gầy yếu nhất trong bọn trẻ, như thể chỉ cần một ngọn gió nhẹ cũng có thể thổi cô ngã.
Nhắc đến cô cả của nhà họ Chân, ánh mắt chú Văn đầy vẻ ngậm ngùi, thậm chí còn phảng phất chút dịu dàng. Chúng tôi không hiểu vì sao ông ấy lại kể những chuyện đó cho mình, mà chú Văn cũng chẳng nhìn chúng tôi, cứ như đang nói với chính mình. Đối phương thở dài một hơi, khẽ nói:
“Hồi đó, chị ấy hiểu chuyện, hiền lành lắm. Lúc nào cũng lo đàn em không được ăn no. Chỗ lương khô bọn tôi chia cho, chị lại lén đưa hết cho mấy đứa em, còn bản thân thì giả vờ như chẳng đói chút nào.”
Chú Văn kể tiếp, sau khi ăn xong, hai người liền bắt tay vào việc. Dù sao chuyến này không phải đến chơi. Họ muốn xem rốt cuộc cái xác kia có gì kỳ quái, thế nên nhân lúc làm phép trông đêm, họ lặng lẽ đến bên thi thể.
Nhà họ Chân nghèo đến mức chẳng có nổi nén nhang, chỉ dùng một tấm chiếu rách phủ lên người c.h.ế.t. Chú Lâm liếc mắt ra hiệu, chú Văn khẽ gật đầu rồi âm thầm mở tấm chiếu ra. Trước mắt họ là t.h.i t.h.ể cụ cố Chân Tuấn Ba, quần áo rách nát, nằm thẳng đơ, sắc mặt vì m.á.u đông lại mà chuyển sang xám đậm.
Điều kỳ lạ là người c.h.ế.t rồi lẽ ra mặt phải vô cảm, vậy mà Chân Tuấn Ba lại như đang cười. Chú Văn đưa tay khẽ chạm vào mí mắt, quả nhiên thiếu mất con mắt trái. Chú Văn thời đó còn chuyên nghiệp và nhạy bén hơn bọn tôi bây giờ nhiều, vừa nhìn đã thấy không đúng. Ông ấy đưa ngón tay thăm dò vào hốc mắt, rồi rút ra đưa lên mũi ngửi, lập tức ngửi thấy mùi tanh của đất. Ngước mắt nhìn kỹ, còn thấy một sợi lông màu xám.
Chú Văn kinh ngạc, vội truyền ánh mắt sang chú Lâm. Chú Lâm thấy vậy cũng đại khái đoán ra chuyện, lập tức kiểm tra đôi tay của thi thể. Ông phát hiện bàn tay trái của người c.h.ế.t nắm chặt cứng, không sao bẻ ra được. Biết chắc có chuyện, chú Lâm dùng sức bẻ ngược mấy ngón tay. Vừa mở được, một vật sáng loáng rơi xuống đất.
Chú Lâm nhặt lên xem, đó là một đồng bạc “Viên Đại Đầu”. Hai sư huynh đệ nhìn nhau, lập tức hiểu rõ ngọn nguồn.
Thì ra cụ cố Chân Tuấn Ba đúng là bị yêu quái hại c.h.ế.t, nhưng trường hợp này lại hơi đặc biệt: ông ta tự nguyện.
Từ xưa đến nay, những con yêu quái đã tu hành thành hình đều có hai đường: đi chính đạo thì dựa vào linh mạch mà thành gia tiên, dã tiên; còn kẻ đi đường tà đạo thì thành yêu quái hại người. Sau mười năm loạn lạc như một cái sàng lớn, những gì sống sót đều là tinh anh hoặc may mắn, vậy nên đám yêu còn lại phần lớn rất khôn, bị đ.á.n.h cho sợ rồi, không dám tuỳ tiện hại người.
Nhưng vẫn có những loài yêu quái cần ba hồn bảy vía của con người để tu luyện. Quốc gia có pháp luật, còn chúng thì có cách lách luật. Thế là chúng nghĩ ra một trò cực độc — “dùng tiền đổi mạng”.
Đám yêu sống trên núi vốn giỏi đào hang, thỉnh thoảng còn đào xuyên vào mộ cổ, lấy được tiền bạc châu báu. Có của trong tay, chúng bèn tìm những người nghèo khổ lên núi làm rẫy, rồi xuất hiện với dáng vẻ “đại tiên”, nói với họ rằng sẽ độ hóa cho họ thành tiên, còn có thể ban cho gia đình tiền bạc, nhưng phải bỏ lại thân xác phàm trần.
Gặp những yêu quái kiểu này thường là người nông dân nghèo đói quanh năm. Khổ cực quá lâu, vừa nghe “đại tiên” nói vậy thì lập tức vui mừng đồng ý. Nhưng họ không biết, đó chính là điềm báo cái c.h.ế.t.
Yêu quái thấy đối phương đồng ý thì sẽ đưa trước một khoản tiền, rồi móc đi một con mắt. Mắt bị lấy đi là người c.h.ế.t liền. Nhưng vì tất cả đều tự nguyện, nên người c.h.ế.t theo kiểu đổi mạng này khi c.h.ế.t đều mang nét cười. Ở một mức độ nào đó, đây là “giao dịch công bằng”, thậm chí còn che mắt được Thiên đạo, không bị trừng phạt. Vì vậy yêu quái chỉ cần kiên nhẫn đợi người nhà tới lo hậu sự. Đợi đến đêm thất tuần, nó sẽ dựa vào con mắt đã lấy mà lần đến nhà người c.h.ế.t, kéo đi cái xác để phục vụ tu luyện.
Trước đây, khi Cửu Thúc dẫn hai người họ đi phiêu bạt, họ đã từng gặp loại yêu chuyên “dùng tiền đổi mạng” này, nên cũng không phải tay mơ. Thấy tình hình như vậy, chú Văn biết nếu để yêu quái cướp xác thì cụ Chân Tuấn Ba sẽ vì tội tham tài mà vĩnh viễn chịu hình phạt dưới địa ngục, không bao giờ được siêu sinh. Cả hai bèn đến trước ông Chân đang quỳ giữ linh, kể lại toàn bộ sự thật.
Ban đầu ông cụ không tin, nhưng chuyện cha mình mất một con mắt là thật, đồng bạc kia cũng là thật. Trong vùng núi toàn người nghèo, làm gì có vật như thế chứ? Muốn không tin cũng không được.
Ông Chân uống cuống hỏi chú Văn phải làm sao. Đối phương liền bảo: “Đừng sợ, chúng tôi sẽ giúp ông.”
Sau đó, hai người nói cho ông cụ biết cách đối phó yêu quái, chỉ chờ hết đêm thất tuần, đợi yêu quái hiện thân.
