Tái Sinh Thành Khủng Long, Xem Tôi Thăng Cấp Như Thế Nào - Quyển 2: Blood Orchid - Chương 35
Cập nhật lúc: 06/09/2025 22:39
Assath nuốt chửng toàn bộ phần thịt, ăn đến no căng.
Cô vẫy đuôi một cái rồi biến mất vào rừng rậm. Lớp da thay đổi màu sắc, khiến cô như thể tan biến ngay tại chỗ, chỉ để lại một bộ da trăn bị xé rách tơi tả, một cái đầu trăn bị đập vỡ thành từng mảnh, và một đống thịt vụn không thể nuốt trôi.
Xung quanh im ắng lạ thường. Tàn tích của con trăn phát ra mùi m.á.u tanh nồng đậm, lan xa theo gió, chẳng bao lâu nữa sẽ thu hút lũ thú ăn xác thối.
Nhưng vì kẻ săn mồi đã hạ gục con trăn này quá mức đáng sợ, toàn bộ khu vực đều bị bao phủ bởi hơi thở của nó. Không một con vật nào dám đến gần trong thời gian ngắn, ngay cả côn trùng và chim chóc vốn hay kêu ríu rít cũng im bặt.
Không ai muốn thu hút sự chú ý của kẻ săn mồi.
Dĩ nhiên, trừ con người——
Cuối cùng, trách nhiệm với bộ tộc đã chiến thắng nỗi sợ hãi bản năng đối với kẻ săn mồi. Chỉ thấy bảy tám người bản địa, ngang hông quấn lá cây, tay cầm trường mâu, xông vào khu vực này. Họ vừa cảnh giác vừa lớn tiếng hô hoán, cố gắng dùng âm thanh để thu hút hoặc xua đuổi dã thú.
Tuy nhiên, khi thực sự bước vào trong, họ phát hiện ra nơi này chẳng có mối nguy nào cả, chỉ có một đứa trẻ bị thương ngoài da và một con trăn khổng lồ bị ăn dở.
Nhưng... trăn khổng lồ bị ăn dở ư?
Trăn khổng lồ!
Có lẽ vì thông tin ẩn chứa trong cảnh tượng này quá mức kinh hoàng, bộ não của họ tạm thời không xử lý kịp, chỉ có thể trợn mắt nhìn xác con trăn, rồi quay sang nhìn nhau đầy bàng hoàng.
Dù sao cũng là những "người hoang dã" lớn lên trong rừng rậm, họ nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Hai người ngồi xuống kiểm tra xác trăn, hai người khác hỏi thăm cô bé, số còn lại thì tập trung cao độ, cảnh giác xung quanh.
Một người vẫy tay ra hiệu, kết hợp với ngôn ngữ bộ lạc để hỏi: "Nói ta nghe, ‘Suku’ bị thứ gì g.i.ế.c chết? Ngươi có thấy không?"
Cô bé phác họa dáng hình của Assath: "Arutam, là thần..." Cô bé phát âm từ "Arutam" với vẻ mặt thành kính, "Ngài đã cứu ta, đã ăn Suku."
Mấy người bản địa liếc nhìn nhau, vẻ mặt đông cứng trong sự hoang mang và ngờ vực.
Một mặt, "Arutam" là danh xưng của thần hộ mệnh trong rừng, biểu tượng tín ngưỡng của bộ lạc, cũng là linh hồn dẫn dắt các Shaman tiếp nhận thần dụ. Ngoài ngài ra, đúng là chẳng có ai có thể chiến thắng Suku, lại còn ăn nó như vật hiến tế.
Nhưng mặt khác, dù Arutam luôn tồn tại trong tín ngưỡng của họ, từ xưa đến nay chưa ai từng nhìn thấy ngài cả.
Dù lời đồn về "thần giáng thế" nghe rất hay, có thể khích lệ tinh thần, mang đến niềm an ủi cho bộ lạc luôn bị Suku quấy nhiễu——
Thế nhưng, hy vọng càng lớn, thất vọng càng nặng nề.
Lỡ như thứ đến đây không phải Arutam, mà là một kẻ săn mồi còn đáng sợ hơn thì sao?
Bộ lạc không chịu nổi thêm mất mát và tuyệt vọng nào nữa. Họ đã mất quá nhiều người thân dưới nanh vuốt của Suku.
Người bản địa: "Ngài trông thế nào?"
Cô bé: "Có tay, có chân, có răng nanh, mắt như đá mắt hổ, đuôi của ngài chính là một con Suku."
Cô bé khẳng định chắc nịch: "Arutam đã đến. Ngài không ăn người, ngài sẽ ăn những con Suku đã ăn Apa và Amu của chúng ta."
Họ không hỏi thêm nữa, chỉ nhanh chóng thu dọn tàn tích của con trăn, rồi đưa cả cô bé lẫn xác con trăn về bộ lạc.
Với họ, dù thứ đến là Arutam hay một kẻ săn mồi mạnh mẽ hơn, mọi người trong bộ lạc đều có quyền biết, đặc biệt là Shaman. Họ cần báo tin để bộ lạc sớm chuẩn bị.
Bọn họ không hề hay biết rằng, không lâu sau khi họ rời đi, Assath liền lộ diện từ bụi cây gần đó.
Thực ra, cô chưa từng rời đi. Chỉ là do thói quen cũ hình thành khi còn bị nhốt trong phòng thí nghiệm—thích nghe lén con người nói chuyện mà thôi.
Chỉ tiếc ngôn ngữ của bộ lạc là tiếng địa phương, cô hoàn toàn không hiểu gì. Kết hợp với việc họ dùng tay ra hiệu, cô chỉ có thể đoán mò, cuối cùng càng nghe càng mù mịt.
May mà họ đi về bộ lạc, cô định chuẩn bị bám theo, làm tổ ở một nơi không xa họ lắm.
Không vì gì khác, chỉ vì miếng ăn mà thôi.
Lý do rất đơn giản, cô từng tiếp xúc với vô số loài trăn, hiểu rõ thói quen săn mồi của chúng. Thông thường, để ăn no, kẻ săn mồi cần nuốt lượng thức ăn bằng 2-3% trọng lượng cơ thể, trăn cũng vậy.
Khác biệt duy nhất là, nhờ cấu tạo cơ thể và hệ tiêu hóa đặc thù, trăn có thể nuốt chửng con mồi to hơn đầu mình, giữ nó trong bụng chờ tiêu hóa, sau mỗi lần săn sẽ được nghỉ ngơi dài hạn.
Nhưng trăn không ngu, chúng sẽ không mạo hiểm nuốt con mồi quá to, tránh nguy cơ bị rách bụng. Chúng thường chỉ chọn con mồi dễ xử lý, có thể nuốt trọn, như chim, động vật có v.ú và cá.
Phần lớn thời gian, trăn không chủ động săn con người, trừ khi chúng lớn đến mức có thể nuốt người một cách dễ dàng.
Mà trùng hợp làm sao, khu rừng này lại có một con trăn khổng lồ như thế...
Nhìn cách con người quen cửa quen nẻo dọn dẹp chiến, cô nghi ngờ rằng, nơi này không chỉ có một con trăn khổng lồ, mà có cả một ổ?
Dù sao thì, khi loài trăn đạt đến kích thước khổng lồ, chế độ ăn uống của chúng chắc chắn sẽ thay đổi.
Để tiết kiệm thời gian và thể lực, chúng sẽ giống cô—không thèm đụng đến những con mồi nhỏ, chỉ thích săn "con mồi lớn".
Mà đối với trăn khổng lồ, còn con mồi nào thích hợp hơn con người nữa chứ?
Không có.
Giả sử một người nặng 170 pound, con trăn chỉ cần săn một hoặc hai người là có thể ăn no, không cần phải di chuyển thêm. Hơn nữa, con người có số lượng đông, dễ săn và cũng dễ tiêu hóa, nên chắc chắn chúng sẽ chủ động săn đuổi con người chỉ để việc ăn uống thuận tiện hơn.
Cho nên, nơi nào có con người tụ tập, nơi đó sẽ có chúng. Chỉ cần đi theo con người, Assath sẽ không phải lo lắng về vấn đề thức ăn.
Đến lúc đó, con người sẽ dụ những con trăn khổng lồ đến, còn cô sẽ ăn chúng—chẳng phải đây là một mối quan hệ đôi bên cùng có lợi sao?
Thật không ngờ, sinh vật đầu tiên mà cô thiết lập "mối quan hệ cộng sinh" tại một vùng đất mới lại chính là con người. Trải nghiệm này đúng là mới mẻ.
Assath nhẹ nhàng bước đi, chậm rãi bám theo đám người. Không biết đã trôi qua bao lâu, cô nhận ra mùi của họ tập trung lại ở một nơi và không di chuyển nữa. Lúc này, cô mới dừng lại, quyết định tìm một chỗ qua đêm.
Nhưng, nên tìm chỗ nào đây?
Trong một khu rừng rậm nơi có những con trăn khổng lồ dài đến 40 feet bò qua, thực ra ở đâu cũng không an toàn.
Một con trăn dài như thế không phải mối đe dọa đối với cô, nhưng nếu có con còn dài và to hơn thì sao? Nếu đối phương thực sự có thể nuốt chửng cô thì sao?
Có khả năng lắm. Bởi theo cảm nhận của cô, nhiệt độ ở vùng đất mới này cao hơn hẳn đảo Nublar. Mà "Mr. DNA" từng nói rằng môi trường nhiệt độ cao dễ tạo ra loài trăn khổng lồ. Nếu nơi này có một dòng sông nóng, thì xác suất xuất hiện một cá thể khổng lồ sẽ rất cao...
Dòng sông nóng là gì, cô không rõ. Trong khu rừng này có dòng sông nóng hay không, cô càng không biết.
Cô chỉ biết rằng khu rừng này rộng lớn đến mức khó tin, có lẽ dù đi vài năm cũng chưa ra được. Vì vậy, mọi khả năng đều có thể xảy ra.
Suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cô vẫn quyết định xây tổ gần khu vực của con người.
Cô làm tổ rất đơn giản, chỉ xếp vài tảng đá lớn với nhau. Để ngủ ngon hơn, Assath còn chất thêm nhiều cành cây và lá khô, nhìn qua chẳng khác gì một "tổ chim" khổng lồ.
Ừm... Có khi nào tiến sĩ Wu đã thêm gen của Pterosaur vào cô không nhỉ? Cô nghĩ thầm, sau đó thoải mái cuộn mình trong tổ.
Cùng lúc đó, cả bộ lạc thổ dân không ai dám ngủ. Họ đốt lửa trại, ăn chẳng được bao nhiêu, chỉ vây quanh xác con trăn mang về và tranh cãi gay gắt về việc "có nên dọn đi hay không".
"Chúng ta đã rời bỏ quê hương một lần, chẳng lẽ còn phải rời đi lần thứ hai? Mùa của Suku sắp đến rồi, chúng sẽ săn lùng khắp nơi, chúng ta trốn không thoát đâu."
"Cầu cứu đám 'ác quỷ' tóc vàng da trắng kia ư? Chúng đã g.i.ế.c người của chúng ta bằng vũ khí quỷ dữ, còn dụ Suku đến đây! Tôi không tin chúng nữa!"
"Chúng đến đây với những lời dối trá! Chúng hứa sẽ đưa Suku đi, nhưng lại lừa chúng ta. Chúng chỉ muốn lấy hoa của Suku!"
"Arutam đã hiển linh... Ngài đã nghe thấy lời cầu nguyện của chúng ta..."
Cuối cùng, cuộc tranh cãi kết thúc bằng một nghi lễ tế thần.
Shaman chủ trì buổi lễ đã rất già, bà phải chọn người kế nhiệm trước khi qua đời để thay bà bảo vệ bộ lạc.
Bấy lâu nay, bà vẫn chưa tìm được người ưng ý, cho đến khi nghe nói có một cô bé sống sót sau cuộc truy sát của Suku.
Bà tìm đến cô bé, nhìn sâu vào đôi mắt hổ phách của cô, như thể thông qua chúng mà thấy được điều gì đó.
Hồi lâu sau, Shaman nhắm mắt lại, nước mắt già nua tuôn trào, giọng nói run rẩy nhưng đầy mãn nguyện: "Ta đã nhìn thấy một đôi mắt... Như hai viên đá mắt hổ tràn đầy dũng khí. Ngài đang nhìn chằm chằm vào Suku... Ngài đã mang Suku đi..."
Cô gái được chọn làm người kế nhiệm của Shaman, từ đêm nay sẽ bắt đầu học hỏi.
Khi lửa trại tàn dần, thổ dân bôi nước cốt thảo dược xua đuổi trăn lên lều, mặt đất và cơ thể. Chỉ cần đêm nay không mưa, họ có thể sẽ an toàn.
Thời tiết lại nóng thêm một chút.
Dòng chảy của sông Amazon cuộn xiết, mang theo lượng lớn bùn cát đổ ra biển. Trong làn nước đục ngầu, vài cái bóng dài to lớn trồi lên rồi lại lặn xuống, liên tục bơi ngược dòng hướng về khu rừng.
Ngày hôm ấy, Assath được ăn no một bữa rồi lại đói suốt hai ngày, thực sự không chịu nổi nữa. Cô không thể chờ đợi những con trăn đến săn người, đành phải chủ động chạy đến bờ sông.
Phải nói rằng, do khu rừng Amazon rộng lớn và chưa bị con người khai phá, các sinh vật nơi đây đều vô cùng lành. Ngay cả những con cá trong sông cũng chưa từng chịu sự "mài giũa của xã hội".
Assath chỉ đơn giản thả đuôi xuống nước, quẫy vài vòng như một sâu, thế mà một con cá sấu Caiman dài 13 feet lập tức mắc câu, đúng là ngốc hết chỗ nói.
Nó há miệng cắn lấy đuôi cô rồi xoay người thực hiện "cú xoay tử thần". Nhưng không ngờ, chỉ cần nhấc nhẹ đuôi một cái, Assath đã khiến nó bay vọt lên trời, rồi "rầm" một tiếng, rơi mạnh xuống đất, choáng váng không biết mình đang ở đâu.
Nhân lúc cá sấu không chú ý, Assath đã giẫm nát đầu nó, rồi cắn vài miếng nuốt trọn.
Xong xuôi, cô ném xác cá sấu xuống nước, chờ đợi một con mồi lớn hơn mắc câu.
Ai ngờ đúng lúc này, từ hướng thác nước vang lên tiếng kêu la của thổ dân, xen lẫn tiếng gầm giận dữ của một con báo đốm.
Assath có linh cảm rằng "đại tiệc" đã đến.
Không chần chừ, cô lập tức lao về phía phát ra âm thanh.
Có vẻ như trùng đường, cô suýt va vào một người thổ dân đang hoảng loạn chạy trốn.
Do kích thước khổng lồ và tốc độ quá nhanh, người thổ dân kia chỉ cảm thấy một cơn gió cuồng bạo lướt qua bên cạnh, khiến mặt anh ta đau rát.
Khoan đã... Vừa rồi là cái gì vậy? Hình như có thứ gì đó vừa chạy ngang qua?!
Không kịp nghĩ nhiều, anh ta vẫn cắm đầu chạy thục mạng, chẳng quan tâm được gì khác. Đồng bạn của anh đã bị Suku nhắm trúng, phải nhanh chóng tìm người đến cứu mới được!
Nhưng anh ta đâu biết rằng, Assath đã đến thác nước trước một bước. Dưới đáy nước, một con trăn khổng lồ dài 45 feet với thân màu vàng đen đang ngoạm lấy một người mà xoay tròn, cơ thể to lớn của nó quấn chặt con mồi.
Nhìn thấy con trăn định ăn thịt người dưới nước, Assath lập tức lao xuống, vung móng chụp lên người nó.
Cô không muốn xác người làm hỏng hương vị của “thức ăn”. Một con trăn với bụng đầy thịt người chẳng hấp dẫn cô chút nào—giống như con người chẳng thấy hứng thú với khoai tây chiên dính phân chim vậy.
Cú vồ của cô xé rách da thịt con trăn, m.á.u tươi phun trào, con trăn đau đớn buông người ra, há miệng lao tới định cắn Assath.
Ồ hay lắm! Lại thêm một món “thức ăn” to gan liều mạng, còn tràn đầy sinh lực, đúng kiểu cô thích nhất.
Assath quyết tâm biến vũng nước này thành một nồi súp trăn khổng lồ. Nếu đã vậy, thì con người này chỉ là một gia vị thừa thãi mà thôi. Cô vung đuôi, hất anh ta lên bờ.
Con trăn vàng đen rõ ràng là một kẻ săn mồi dày dạn kinh nghiệm, nó nhanh chóng quấn lấy Assath, há miệng bịt kín khoang mũi cô, dùng chiếc đuôi dài quật mạnh, kéo cô xuống đáy nước.
Nhưng nó lại phạm phải sai lầm giống con trăn đen trước đó—nó không hiểu rõ về thiên địch của mình.
Nó nghĩ rằng kẻ to lớn thì không biết bơi, nó nghĩ sinh vật trên cạn không thể sống dưới nước, nó nghĩ đối thủ sẽ c.h.ế.t ngạt khi bị kéo xuống… Nhưng nó đâu ngờ rằng, Assath lại bơi cực kỳ giỏi.
Da cô dày, xương cứng như thép, dù nó có siết chặt hết mức cũng chẳng thể ép nổi một bọt khí ra khỏi mũi cô.
Nó nổi giận, vừa quấn chặt Assath, vừa ngoạm lấy đầu cô mà bẻ ngược, định bẻ gãy cổ cô. Đây là cách nó g.i.ế.c người và những con mồi khác từ trước đến nay, chưa từng thất bại. Nhưng xương của Assath cứng đến mức nó bẻ mãi vẫn không xong, cuối cùng chỉ tự làm mình hụt hơi.
Thế là con trăn vội vàng thả Assath ra, định lao lên mặt nước. Nhưng chưa kịp hớp hơi, nó đã bị cô nắm đuôi, kéo mạnh xuống đáy.
Nước thác mát lạnh hòa cùng vị m.á.u tanh. Assath cắn phập vào cổ con trăn, hai móng vuốt cắm sâu vào bụng nó, rồi lắc đầu xé toạc da thịt. Không bao lâu sau, cô giật phăng đầu nó ra khỏi thân, m.á.u tràn lan khắp nước, tạo thành loại súp mà cô thích nhất.
Ngon quá!
Biết trước hôm nay có đại tiệc thịt, cô đã không thèm con cá sấu kia rồi, phí cả chỗ trống trong dạ dày!
Assath không ngờ rằng, gã thổ dân bị cô hất lên bờ vẫn chết.
Không phải c.h.ế.t vì c.h.ế.t đuối, cũng không phải do bị trăn siết hay bị cô quật trúng, mà là c.h.ế.t trong miệng một con trăn khổng lồ khác.
Thì ra, khi cô giao chiến với con trăn vàng đen, trên bờ còn một con trăn khác lặng lẽ rình mồi, chờ thời cơ ra tay. Con này dài khoảng 36 feet, nhỏ hơn hai con trước, nhưng với con người thì vẫn là một con quái vật kinh hoàng.
Gã thổ dân xui xẻo không thoát khỏi số phận bi thảm, bị nuốt trọn trong bụng con trăn. Nhưng đồng loại của gã đã báo thù cho gã—họ tìm thấy con trăn sau khi nó đã ăn no và đang phơi mình dưới nắng. Thế là họ dùng giáo nhọn đóng chặt nó xuống đất, rồi kéo về bộ lạc.
Assath nhìn thấy họ m.ổ b.ụ.n.g con trăn, moi ra t.h.i t.h.ể còn nguyên chưa tiêu hóa của người cùng tộc…
Mùi thối rữa quen thuộc, mùi chua hôi do phân hủy… Gã c.h.ế.t y hệt như cái xác trong rừng.
Lúc này, Assath mới hiểu ra—thi thể trong rừng kia chính là một kẻ xấu số bị tiêu hóa dở trong bụng một con trăn khác. Hóa ra cô đã vô tình đi ngang qua lãnh địa của một con trăn khổng lồ khác rồi.
Vậy câu hỏi đặt ra là—ở đây rốt cuộc có bao nhiêu con trăn khổng lồ?
Tại sao cô đi đến đâu cũng gặp chúng?
Và… tại sao lại có nhiều trăn khổng lồ như vậy? Chúng cũng trốn ra từ phòng thí nghiệm sao? Hay thực ra nơi này không phải rừng rậm, mà là một “Công viên kỷ trăn”?
Assath nghĩ đến hàng loạt khả năng, nhưng cuối cùng quyết định đi tìm manh mối.
Cô nhớ t.h.i t.h.ể trong rừng có mái tóc vàng, làn da trắng—một “kẻ lạc loài” hoàn toàn khác biệt với những thổ dân da nâu lớn lên ở đây. Nhưng do bất đồng ngôn ngữ, “người ngoài” mới là những kẻ cô quen thuộc hơn, vì thế cô chỉ có thể thu thập thông tin từ những thứ liên quan đến họ.
Nếu có người da trắng đến đây, thì theo hiểu biết của cô về họ, chắc chắn họ sẽ để lại công trình, hoặc ít nhất cũng phải có balo và thiết bị liên lạc.