Tái Sinh Thành Khủng Long, Xem Tôi Thăng Cấp Như Thế Nào - Quyển 2: Blood Orchid - Chương 45 (xong)
Cập nhật lúc: 06/09/2025 22:39
Lựa chọn và cuộc sống của mỗi người đều khác nhau.
Kẻ ngoại lai vì lợi ích mà đến, đặt cược một ván lớn nhưng gần như mất trắng. Người bản địa làm lễ tế, nửa đời thu về đủ đầy. Kẻ trước cầu mà không được, kẻ sau dâng mà chẳng thiếu. Kẻ trước khao khát đột phá, kẻ sau chỉ mong trở về.
Người với người không giống nhau. Nhưng sự khác biệt đó thì liên quan gì đến cô?
Assath không vì kẻ ngoại lai tham lợi mà xem thường họ, cũng không vì người bản địa vô cầu mà tôn họ lên một bậc. Kẻ săn mồi không đánh giá đúng sai của con mồi, giống như con người chẳng mấy quan tâm gà vịt ăn sâu hại hay côn trùng có ích.
Con người muốn đoạt hoa? Được, có bản lĩnh thì cứ đến mà cướp!
Con người không cần hoa? Được, vậy cô ăn luôn.
Chuyện đơn giản như thế, Assath chưa bao giờ lấn cấn. Người bản địa dành cho cô sự tôn trọng, cô cũng cho họ sự ưu ái. Đã quyết định rồi thì cô không ngại giúp họ giải quyết một số rắc rối.
Mối quan hệ cộng sinh không phải cũng như vậy sao?
Cô bỏ công sức chiến đấu để giải quyết vấn đề chính, họ bỏ sức lao động để giải quyết nhu cầu của cô. Còn như quan niệm về sự sống chết, theo đuổi vật chất hay tinh thần, có quan trọng bằng việc lấp đầy bụng không? Cô không ăn no, bất kể con người tốt xấu ra sao, họ cũng phải chịu hậu quả.
Assath nuốt trọn số hoa được trả lại, rồi lần theo mùi hương đến viếng mộ của vị Shaman già.
Nói là mộ, nhưng thực ra người bản địa không chôn cất người chết. Họ thường đặt t.h.i t.h.ể vào một khu rừng cố định, hoặc treo lên cây, hoặc đặt dưới gốc. Sau đó, những sứ giả của rừng (thú hoang) sẽ đưa xương thịt đi, còn linh hồn thì hòa vào đất, thấm vào dòng nước, trở về với rừng xanh, cùng vạn vật dung hòa.
Đó là lựa chọn của họ, cũng là tín ngưỡng của họ.
Như Yama từng nói: "Suku đã đưa cha mẹ tôi đi, tôi rất buồn. Nhưng tôi biết rằng từ nay, mỗi ngọn gió thổi qua khu rừng này đều là tiếng gọi của họ, chúng tôi vẫn mãi ở bên nhau."
Vị Shaman già hẳn cũng như vậy, hóa thành gió, thành mưa, hay chỉ đơn giản là một chiếc lá rơi xuống người cô.
Cũng tốt. Xem ra con người dù có chết, thứ họ gọi là 'linh hồn' cũng chẳng có gì đáng sợ. Cô từng nghĩ họ sẽ biến thành một dạng sinh vật lợi hại khác, hóa ra là không.
Assath rời khỏi khu mộ, chậm rãi đi quanh nơi người bản địa sinh sống.
Cô thấy những cột đá từng gãy đã được sửa chữa, những cột mới đang dần được chạm khắc. Câu chuyện được kể vẫn là câu chuyện cũ, nhưng giờ đây, cô không còn nhìn nó từ góc độ của con mãng xà nữa.
Trước kia, cô tưởng rằng con mãng xà ngậm hoa đến nhưng lại bị loài người xua đuổi. Giờ đây, cô biết rõ: Mãng xà ăn hoa huyết lan, ngày càng lớn mạnh, từ đó khai chiến với loài người.
Nhưng dù là sức mạnh, tốc độ, số lượng sinh sản hay tốc độ trưởng thành, người bản địa đều không thể so với mãng xà. Trong cuộc chiến kéo dài suốt nhiều thế hệ, họ luôn bị áp đảo, gần như trận nào cũng thua.
Không còn cách nào khác, họ đành chấp nhận số phận. Đánh không lại thì quy phục, thế là vào một giai đoạn nào đó trong lịch sử, họ đã thần phục trước sức mạnh của mãng xà, khắc hình nó để thờ cúng, mong tránh khỏi họa diệt tộc.
Đáng tiếc, điều đó chẳng có tác dụng. Mãng xà ăn thịt nhiều người hơn, nuốt họ vào bụng rồi lại nhả ra để làm phân bón cho hoa. Hóa ra, nội dung được khắc trên cây cột đá gãy là như vậy. Dưới những gốc huyết lan ấy, chôn đầy xác chết. Máu thịt của vạn vật là dưỡng chất cho hoa, mà hoa lại mang đến tuổi thọ cho kẻ ăn nó.
Vậy ra, bản chất của trường sinh là xây dựng trên núi xương biển m.á.u sao?
Có lẽ vậy.
Assath đến trước cột đá cuối cùng—
Cô thấy hình ảnh của mình đang dần hiện lên trên đó, thấy trận chiến giữa "cô" và mãng xà khổng lồ. Xác trăn đổ gục, huyết lan nở rộ khắp nơi. Cô là kẻ thắng sau cùng, nhưng xét cho cùng, đây cũng chỉ là một dạng khác của núi xương biển m.á.u mà thôi.
Vậy mà, người bản địa lại không xem cô là ác ma, mà coi cô là thần linh bảo hộ của họ—Arutam.
Một con bạo long hoang dã lại trở thành Arutam. Không biết những linh hồn từng bỏ mạng trên đảo Nublar sẽ nghĩ gì về chuyện này đây?
—
Assath giữ đúng lời hứa. Đã có lời nhờ cô mang hoa đi, vậy thì cô sẽ lấy hết.
Mỗi ngày, cô rong ruổi trên vùng sông nước nhiệt đới, vừa tìm những cây huyết lan còn sót lại, vừa tận dụng các chướng ngại vật tự nhiên của rừng rậm để rèn luyện phản xạ, học cách né tránh đại thụ và kiểm soát khả năng "bay thấp".
Cô nhiều lần ôn lại trận chiến với mãng xà, hiểu sâu sắc tầm quan trọng của quyền kiểm soát không gian. Cô cũng biết rõ, việc không thể bay chính là khuyết điểm lớn nhất và không thể khắc phục của mình.
Nhưng đã đến nước này, cô còn có thể làm gì? Chẳng lẽ tìm tiến sĩ Wu để gắn thêm đôi cánh?
Thôi đi, chắp vá trên cơ thể hiện tại là chuyện hoang đường. Cô chỉ có thể dựa vào những điều kiện sẵn có để tự tạo ra cơ hội cho mình. Không thể bay cao, thì ít nhất cũng phải học cách lướt sát mặt đất, cô không thể thua kém một con sóc bay được!
Là kẻ đứng đầu trên cạn, Assath vốn luôn hiếu thắng. Trong quá trình tìm hoa, cô cũng không ngừng tự thúc ép bản thân.
Mỗi khi nhớ lại khoảnh khắc bị mãng xà nuốt chửng, cô lại tự so sánh với chính mình của ngày hôm qua—Sức mạnh đã lớn hơn chưa? Tốc độ có nhanh hơn không? Móng vuốt đã sắc bén hơn chưa?
Nếu chưa, cô sẽ tăng cường tập luyện, vì ai biết được liệu ngày nào đó, trong khu rừng này lại xuất hiện một con mãng xà khác hay không.
Ngày qua ngày, Assath lại quay về cuộc sống kỷ luật đến mức tự ép mình: sáng sớm chạy bộ rồi lượn bay, trưa bơi lội kiếm ăn, tối rèn luyện thị lực.
Ba tháng sau, gan cô càng lớn, quyết định kết hợp "bay thấp" với "rèn mắt", lại còn tập vào ban đêm. Kết quả, kẻ săn mồi lần này đ.â.m sầm vào cây không ai khác ngoài cô—thậm chí còn tự đập ngất bản thân.
Thế nhưng, cô càng bị đánh bại, càng kiên trì, tiếp tục luyện tập không ngừng, và cũng không ngừng… đ.â.m vào cây. Để tránh bị ngất, cô sáng tạo ra chiêu "va chạm bằng lưng"—trước khi đ.â.m vào cây thì cuộn tròn cơ thể để giảm lực va đập, đồng thời rèn luyện xương cốt.
Dù vậy, kỹ thuật mới này lại khiến cô rơi vào nhiều tình huống dở khóc dở cười. Chẳng hạn như bây giờ, cô cuộn người đ.â.m vào một cây óc chó cao mấy chục mét, mà gai trên lưng lại cắm chặt vào thân cây, kẹt cứng giữa không trung, lên xuống đều không được.
Giãy giụa một hồi vẫn vô ích, Assath đành đợi cơ thể thả lỏng, thu lại gai lưng rồi mới tụt xuống.
Không ngờ, trước khi kịp xuống, cô đã bị một bầy khỉ xúm lại xem trò vui...
Mấy chuyện mất mặt thế này không ít, may mà chỉ có cô biết. Nhưng lũ khỉ trong rừng mưa thì thật đáng ghét, suốt nửa năm trời, hễ thấy cô là chạy biến, còn làm động tác "cọ lưng vào cây" để chọc tức, thực sự rất đáng ăn đòn!
Assath nổi giận, hậu quả rất nghiêm trọng. Khi mùa mưa đến năm thứ hai, thay vì đi săn trăn khổng lồ như mọi khi, cô quyết định… tận diệt bầy khỉ trước.
Lũ khỉ trong rừng mưa không ngờ rằng, dù chúng có đu cành, nhảy nhót, lẩn trốn nhanh đến đâu, cũng không thể thoát khỏi kỹ năng bay thấp săn mồi của cô. Khi Assath lao như một mũi tên xuyên qua khu rừng, hầu như không có con khỉ nào thoát khỏi nanh vuốt của cô.
Chỉ trong ba ngày, bầy khỉ thích trêu ngươi ấy bị cô quét sạch khỏi lãnh địa sông nóng.
Xử lý xong lũ khỉ, cô mới quay lại săn trăn khổng lồ, ăn uống no nê. Mà dưới sự săn g.i.ế.c không ngừng của cô, loài trăn dài hàng chục mét này ngày càng tiến gần đến bờ vực tuyệt chủng.
Cứ như thế suốt hai mùa mưa, Assath chính thức bước vào giai đoạn trưởng thành khi tròn 16 tuổi, đồng thời tiến vào kỳ lột da lần nữa.
Thật ra, hai giai đoạn này cũng không có gì khác biệt lắm, chủ yếu là giúp cơ thể cô lớn hơn, xương cốt cứng hơn, thể chất mạnh hơn mà thôi.
Nhưng cô lại đánh giá thấp phản ứng hóa học khi hai giai đoạn này trùng nhau.
Cũng giống như con người khi bước vào tuổi dậy thì sẽ có những đặc điểm giới tính thứ cấp—chẳng hạn như thay đổi giọng nói hay phát triển cơ thể—giai đoạn trưởng thành của Assath tương đương với "giai đoạn bùng phát gene" thứ hai.
Cô rất khỏe mạnh, cơ thể của cô cũng nhận ra điều đó, thế là nó không hề cho cô cơ hội phản ứng mà lập tức kích hoạt những gene ngủ đông, khiến cô ngày nào cũng phải thích nghi với những biến đổi mới.
Màng che phủ mắt bong ra, thị lực của cô lại tăng lên một bậc, giờ đây có thể nhìn thấy cả những chi tiết cực nhỏ—ví dụ như số lần vỗ cánh của ong, quỹ đạo phun phấn hoa, hay dòng chảy khi nước nóng và lạnh hòa vào nhau.
Nhưng cùng với thị lực mạnh lên, cô cũng gặp một vấn đề mới—khả năng phối hợp giữa mắt và thân thể giảm đi.
Mắt nhìn quá rõ, não phản ứng quá nhanh, nên khi cô bay xuyên rừng, mắt luôn xác định chướng ngại trước, não chọn tuyến đường sau, mà cơ thể thì… không theo kịp.
Nhanh một chút thì đ.â.m cây, chậm một chút thì lật nhào, chỗ nào cô đi qua cũng tan hoang. Phải mất nửa tháng, cô mới thích ứng lại được.
Đồng thời, lớp vảy cũ rơi ra cùng lớp da cũ, để lộ lớp vảy mới—không còn màu xám bạc, mà sáng hơn chút.
Giống như một món đồ bạc cũ kỹ bị lau sạch lớp xỉn màu, vảy mới của Assath ánh lên sắc bạc rực rỡ, khiến cô trông như một con quái thú khổng lồ bằng bạc, lấp lánh vẻ vương giả.
Nhưng Assath không thích lắm.
Là một kẻ săn mồi, cô luôn chú trọng hiệu suất và thực dụng, không hứng thú với những thứ màu mè. Vảy bạc thì đẹp đấy, nhưng đẹp thì có tác dụng gì? Nó giúp cô đánh thắng lươn điện hay trăn xanh được không?
May là dù màu vảy thay đổi, khả năng ngụy trang của cô không bị ảnh hưởng, nếu không, cô chắc chắn sẽ tức c.h.ế.t vì cái bộ gene c.h.ế.t tiệt này!
Nhưng cô không ngờ rằng, vảy bạc không phải vô dụng, ngược lại, còn cực kỳ thực dụng.
Dù trên cạn hay dưới nước, phần lớn sinh vật đều có mắt, và cần dùng mắt để quan sát.
Mà vảy bạc của cô chính là khắc tinh của mắt—chỉ cần ánh sáng ban ngày đủ mạnh, cô có thể điều chỉnh góc độ để phản chiếu ánh nắng thẳng vào mắt đối thủ. Nếu thao tác tốt, thậm chí có thể đánh bại kẻ địch mà không cần động tay.
Tổng thể mà nói, cô khá hài lòng với những thay đổi của cơ thể. Điều duy nhất không vui là… kích thước của cô chẳng lớn thêm bao nhiêu. Điều này thực sự khiến một con khủng long cảm thấy lo lắng.
Trăn xanh dài 190 feet, cô dài thêm chút thì làm sao?
Trăn xanh nặng 30 tấn, cô có tăng gấp đôi trọng lượng thì làm sao?
Rốt cuộc phải ăn bao nhiêu mới có thể lớn lên? Hoặc… có khi không liên quan đến ăn, mà phải chờ tuổi tác tăng lên?
Assath nghĩ mãi không ra, cũng chẳng có ai như tiến sĩ Wu để giải đáp cho cô. Cô chỉ có thể tiếp tục săn trăn khổng lồ, tiếp tục nuốt hoa huyết lan, nhưng dù thức ăn có nhiều đến đâu, cũng sẽ có ngày cạn kiệt.
Khi mùa mưa thứ ba đến, cô phát hiện mình không tìm thấy một con trăn khổng lồ nào dài hơn 40 feet nữa.
Bởi vì… cô đã ăn sạch chúng! Toàn bộ!
May mà trung tâm sông nóng vẫn còn khá nhiều hoa huyết lan, nếu không, có lẽ cô sẽ rơi vào trạng thái hoảng loạn vì thiếu thức ăn.
Thôi kệ, ngày nào hay ngày đó đi. Nếu thật sự không ổn, cô sẽ rời khỏi rừng mưa, chạy đến chỗ đông người hơn, nằm vạ trong "khu phục vụ" của loài người.
Cô tin rằng, với tư cách là con bạo long duy nhất trên thế giới, con người chắc chắn sẽ tìm cách nuôi cô sống sót.
Cứ việc ăn bám họ chẳng có gì đáng xấu hổ.
Vào mùa mưa thứ ba kể từ khi Arutam xuất hiện, Yama đã trở thành một Shaman xuất sắc.
Cô bé tuy còn nhỏ nhưng ngày nào cũng rèn luyện kỹ năng. Từ nhận biết thảo dược đến thực hành chữa bệnh, từ vũ điệu tế lễ đến triệu hồi cộng hưởng, cô giống như Assath, mỗi ngày đều tiến bộ, mỗi tháng lại trưởng thành hơn một chút.
Cô kết thân với người ngoại lai Bill, nhờ vị thuyền trưởng này mà lãnh thổ của bộ tộc Shirishama có thêm nhiều loại thảo dược. Để đáp lại, cô dành cho anh một vị trí trong các nghi lễ cúng tế của bộ lạc, giúp anh có cơ hội chiêm ngưỡng hình dáng ngày càng oai phong của Arutam một lần nữa.
Bill: “Không biết Arutam của mọi người có cần thức ăn bên ngoài không? Giờ rừng rậm không còn trăn khổng lồ nữa, nguồn thức ăn của nó cũng giảm sút. Nếu cần, thuyền của tôi có thể chở đến 5 tấn thịt, thịt lợn hoặc thịt bò.”
Yama bật cười: “Arutam không thuộc về chúng tôi, và tín đồ của Ngài cũng không phân biệt trong hay ngoài. Nếu anh chọn tin vào Ngài, vậy thì hãy tin tưởng Ngài đi.”
“Tin tưởng điều gì?”
Yama: “Tin rằng Ngài sẽ không vì đói mà ăn thịt con người.” Cô hiểu rõ, Bill đề nghị chở thịt đến là để đảm bảo an toàn cho họ.
Bill gật đầu: “Tôi hiểu rồi.”
Anh tham gia vào nghi lễ của bộ tộc Shirishama, sau hai năm, cuối cùng anh lại được chứng kiến cảnh bá chủ của rừng sâu, con quái vật tượng trưng cho sức mạnh và sự cứu rỗi.
So với ấn tượng hai năm trước, dường như nó còn mạnh mẽ hơn, lớp vảy bóng mượt như được phủ một lớp dầu, lấp lánh dưới ánh mặt trời như một vị thần.
Hùng mạnh, đẹp đẽ, oai vệ—Bill khó có thể tưởng tượng trên thế giới lại tồn tại một sinh vật hoàn hảo và khí chất đến vậy, tựa như kiệt tác của thiên nhiên. Chúa thật không công bằng, dường như Ngài đã dồn hết mọi ưu điểm vào một sinh vật, tạo nên một thực thể mang dáng dấp thần linh.
Thật đáng kinh ngạc—nó có thể thay đổi màu sắc, có thể ngụy trang, có thể bơi lội và sở hữu sức mạnh g.i.ế.c c.h.ế.t trăn khổng lồ. Nhưng điều kỳ lạ nhất là nó không có ác ý với con người. Đôi đồng tử thẳng đứng của nó luôn lạnh lẽo, nhưng trong mắt lại ánh lên trí tuệ.
Bill khẽ thở dài, rồi quỳ xuống cùng tất cả người dân Shirishama, thành kính thốt lên:
“Arutam ban cho tôi sự sống, mang đi cái c.h.ế.t của tôi…”
Câu này không có gì sai—anh thực sự đã được “tái sinh” nhờ con khủng long này, nếu không, anh đã sớm trở thành phân của con trăn xanh rồi.
Sự tôn kính đối với thiên nhiên, lòng chân thành dành cho Arutam—cuối cùng, điều đó giúp Bill trở thành bạn bè của bộ tộc Shirishama. Nhưng với những người ngoại lai khác, họ sẽ không nhận được đãi ngộ tương tự.
Đạo diễn của đoàn làm phim than vãn: “Nói tôi nghe đi, Bill, rốt cuộc tôi phải trả bao nhiêu tiền mới có thể thuyết phục họ dẫn tôi đi quay phim khủng long? Một sinh vật hoàn mỹ như vậy mà không được công bố, đúng là tổn thất cấp thế giới!”
Bill cười: “Đợi đến khi anh không cần dùng tiền để đổi lấy nữa.”
“Hả, ý anh là gì?”
Bill: “Anh có muốn trở thành tín đồ của Arutam không? Chúng tôi cần những đồ đằng mới.”
*
Tháng 1 năm 2008, mùa mưa.
Đoàn làm phim chính thức đặt chân vào Amazon, sống như thổ dân thực thụ, hoàn toàn từ bỏ thói quen của con người hiện đại.
Cùng năm đó, vào tháng 6, họ được mời tham gia nghi lễ tế thần của bộ tộc Shirishama, có được cơ hội tiếp cận Arutam ở cự ly gần lần đầu tiên. Chẳng bao lâu sau, họ tự nguyện trở thành tín đồ của "Chúa tể rừng xanh".
Cuối năm 2008, bộ phim tài liệu về thiên nhiên “Người bảo vệ rừng” gây bão trên toàn cầu, sự tồn tại của khủng long đã khiến dư luận chấn động. Đồng thời, bộ xương và da của con trăn khổng lồ dài 190 feet được trưng bày cũng khiến cả thế giới bàng hoàng—bởi họ không thể tin rằng mình lại đang chung sống với những sinh vật khổng lồ như vậy.
Năm 2009, vô số nhà thám hiểm, nhà khoa học và phóng viên đổ xô vào Amazon. Nhưng không ngờ, Arutam đã biến mất, còn hang động ở sông nóng đã bị đá lớn bịt kín.
Shaman Yama nói với họ: “Arutam đã rời khỏi khu rừng, tôi không còn cảm nhận được Ngài nữa.”
Từ đó, nhân loại bắt đầu tranh luận sôi nổi: Thần linh có thực sự tồn tại không?
