Tái Sinh Thành Khủng Long, Xem Tôi Thăng Cấp Như Thế Nào - Quyển 5: The Lord Of The Rings - Chương 98
Cập nhật lúc: 06/09/2025 22:43
Vùng đất băng giá nằm ở rất xa, nơi đó gần như không có bóng người, môi trường khắc nghiệt đến cùng cực.
Assath mang theo một chiếc sọt – trong sọt có một tinh linh đang ngồi. Anh ấy ngồi trên tấm thảm len dày, tay cầm một chiếc đèn dầu, ánh lửa chập chờn chiếu lên tấm bản đồ mà anh đang dò xét.
Chốc lát sau, anh vén nắp sọt lên một góc, cùng Assath xác định lại địa hình phía dưới. Gió tuyết tạt thẳng vào mặt, làm câu nói của anh vỡ vụn giữa gió. Nhưng Assath vẫn nghe rõ từng chữ, lập tức điều chỉnh hướng bay, rời khỏi tâm bão tuyết.
Sau một chặng đường dài, họ hạ cánh nghỉ chân tạm thời ở một dãy núi.
Tinh linh mở túi nước, hứng lấy tuyết tan từ đỉnh núi để uống. Rồi anh lấy từ hành trang ra một miếng "bánh đi đường" – chỉ cắn một góc nhỏ, đã no bụng.
“Assath, ngươi muốn thử Lembas không?” – anh lấy một miếng bánh nguyên vẹn, đưa đến bên miệng rồng bạc – “Đây là bánh đi đường của bọn ta, có thể xua tan mệt mỏi và đói khát, mang đến phúc lành cho người ăn.”
“Chỉ cần một miếng nhỏ là đủ. Nhưng ngươi là rồng, có khi phải ăn vài miếng mới thấm. Muốn thử không?”
Tinh linh vốn không quen ăn một mình – có gì thì chia nấy. Dù Assath chẳng hứng thú gì với thứ gọi là bánh, nhưng cũng không nỡ từ chối tấm lòng của bạn.
Cô há miệng, để anh đút bánh vào. Miếng bánh bé tẹo nằm trên đầu lưỡi, như thể một hạt lúa nằm trên đầu lưỡi người – chỉ có thể nếm chút hương vị mà thôi.
Rất ngon.
Không thể nghi ngờ, tay nghề của tinh linh quả thực tuyệt vời. Dù nhỏ, chiếc bánh ấy lại khiến Assath lần đầu tiên nếm được vị của lúa mì và ngũ cốc thô.
Bánh trượt xuống cổ họng, vào đến dạ dày chẳng để lại cảm giác no, nhưng mùi thơm của lương thực cứ quanh quẩn mãi không tan, như thể gột sạch m.á.u tanh quanh cô, chỉ còn lại hơi thở mát lành gắn kết với đất và cây cỏ.
Không hiểu sao, tâm hồn của cô lại rung động chỉ vì một miếng bánh.
Trong đầu bất giác hiện ra mấy cái tên kỳ lạ như: “cơm trắng”, “bánh bao lớn”, “thịt heo xào cay”...
Cuối cùng, tất cả gom lại thành một câu hỏi:
“Legolas, bánh đi đường của tinh linh làm thế nào? Cần nguyên liệu gì? Có trồng được không?”
Legolas cười nhẹ: “Không phải tinh linh nào cũng biết làm bánh đi đường đâu.”
Thấy Assath có vẻ rất quan tâm, anh chừa lại hai miếng, rồi nhét nốt phần còn lại vào miệng cô.
“Công thức của bánh này được giữ bởi các quý bà tinh linh – truyền đời, mà rất bí mật.”
“Phải có nguyên liệu đặc biệt, cộng thêm ma thuật, giống như cách Tauriel niệm chú vào thảo dược để tăng dược tính – mà ta thì không giỏi mấy thứ đó.”
“Ta chỉ giỏi cảm nhận thực vật và chăm sóc chúng.” Legolas nói, “Còn nguyên liệu làm bánh thì có thể trồng được. Ngươi có hứng thú không?”
Assath gật đầu: “Có.”
Legolas mỉm cười: “Vậy thì ngươi cần một mảnh đất màu mỡ, ban cho nó phúc lành. Sau đó gieo hạt, tưới nước, để ánh nắng chiếu rọi, thỉnh thoảng cho cây nghe hát…”
Assath nghe rất nghiêm túc. Cô lập tức quyết định sẽ trưng dụng một vùng ở dãy núi phương Bắc, để trồng thật nhiều nguyên liệu làm bánh.
Sau đó, cô sẵn sàng chi thật nhiều tiền, thuê tinh linh làm cho mình một ổ bánh nặng mười tấn. Nghĩ đến việc kết hợp với thịt rồng băng, lại thêm một tách “trà hoa” nóng hổi, chắc chắn là mỹ vị.
Sau lần nghỉ chân ấy, Assath bay hăng hơn hẳn. Hành trình năm ngày, cô rút ngắn xuống còn ba — và cuối cùng đã tìm đến vùng đất băng giá, cũng dễ dàng thấy được lâu đài băng tuyết.
Có lẽ vì gió tuyết tự nhiên đã là rào chắn tốt, băng long hoàn toàn không đặt cạm bẫy quanh hang ổ, thậm chí còn dồn toàn bộ báu vật vào một chỗ duy nhất, không hề chia ra cất giữ.
Khi Assath và Legolas bước vào trong, cái gọi là lâu đài kia thực ra chỉ có cái "hình dáng" lâu đài, chẳng hề có cấu trúc của một tòa thành.
Lòng đất bên trong lõm xuống, chứa đầy kho báu. Xung quanh chẳng có ánh lửa nào, chỉ có một mặt tường băng được khảm một viên bảo thạch sáng chói, phát ra ánh sáng như sao trời, chiếu rọi toàn bộ không gian.
Assath bị ánh sáng đó mê hoặc, hiếm hoi chăm chú nhìn thật lâu.
Cô có thể “thấy” được, ánh sáng tỏa ra từ viên bảo thạch không chỉ là quang minh, mà còn ẩn chứa nguồn năng lượng hùng mạnh – giống như hơi thở của rồng, tia vũ trụ, sinh khí của huyết lan – cùng một bản chất.
Cô vừa định hỏi Legolas: “Cái đó là gì?”
Thì thấy tinh linh cũng đang nhìn viên ngọc trân trân, đôi mắt xanh như bầu trời đầy chấn động, cứ như nhìn thấy Zephyr bị cháy trụi đầu vậy.
Legolas hít sâu, lấy lại bình tĩnh, thở dài:
“Chúng đã biến mất từ cuối Kỷ nguyên thứ nhất... hơn sáu nghìn năm trước rồi.”
Rồi rất lâu sau, anh mới chậm rãi thốt ra:
“Là... Silmaril – tinh linh bảo châu.”
“Gì cơ?”
“Là bảo châu Silmarils – thứ đã sớm biến mất khỏi thế gian này.”
Anh kể, từ thời xa xưa – thời của Song Thánh Thụ, có một thợ thủ công thiên tài của tộc tinh linh tên Fëanor đã chế tạo ra ba viên Silmarils.
Chúng mang ánh sáng từ hai Cây Thần, được Valar ban phúc, sở hữu đặc tính bất khả xâm phạm, không thể phá hủy, có thể chiếu sáng mọi bóng tối, xua tan ô uế và mục rữa, lại chứa đựng sức mạnh vô thượng.
Trong thần thoại cổ đại còn kể rằng: Đấng Tạo Hóa Ilúvatar từng chạm vào Silmarils, truyền vào chúng ánh sáng sơ khai nhất của thế giới Arda.
Các Vala cho rằng, Silmarils – Tinh Thạch – không nên thuộc về bất kỳ sinh linh nào. Chúng mang trong mình ánh sáng nguyên sơ, và vì lẽ đó, cũng tất sẽ dây dưa với bóng tối nguyên sơ.
Thế là Silmarils nằm trong tay tộc tinh linh, nhưng không ngờ đến cả tinh linh cũng vì chúng mà phát động chiến tranh. Morgoth cướp đi một viên, gắn lên vương miện của hắn; sau đó Beren và Lúthien giành lại viên đó, rồi lại bị một con sói khổng lồ nuốt vào bụng…
Những viên Silmarils từng biến mất, cũng như những chiếc Nhẫn Quyền Năng bị thất lạc, đều đã từng khơi dậy những cuộc chiến kéo dài không dứt, khiến Trung Địa khắp nơi ngập xác, muôn loài chịu khổ.
“Chúng không thể bị phá hủy, cũng không thể vỡ vụn—chúng chỉ có thể ‘biến mất’.”
Legolas nói: “Chúng thực sự đã biến mất. Trong suốt hơn sáu ngàn năm qua: một viên hóa thành sao Mai trên bầu trời; một viên chìm sâu vào tận cùng lòng dung nham; còn một viên thì bị ném xuống đại dương.”
Nhưng điều mà anh không ngờ tới, là viên tinh thạch bị ném xuống biển ấy, cuối cùng lại rơi vào tay Valmorak.
Nghĩ cũng đúng—viên đó chỉ là chìm xuống đáy biển, chứ không như sao Mai treo cao trên trời không thể chạm tới. Biển sâu đầy rẫy sinh vật khổng lồ, mấy nghìn năm qua thể nào chẳng có một con vô tình nuốt vào, rồi bị Lãnh Chúa Băng Sương bắt được.
Lẽ ra, sau khi Valmorak chết, băng tuyết tan rã, viên đá quý kia sẽ lại một lần nữa chìm vào đáy đại dương, vĩnh viễn không thấy ánh mặt trời.
Nhưng trớ trêu thay, họ đã đến long huyệt trước, và tìm được vị trí của viên tinh thạch.
Legolas hiểu rõ Silmarils đối với tộc Tiên có ý nghĩa lớn đến nhường nào. Nó là đỉnh cao của văn hóa và nghệ thuật Tiên tộc, là biểu tượng của ánh sáng và hy vọng, là ánh hào quang vĩnh hằng của hai Cây Thần, là lời thề của Fëanor và truyền kỳ bất tử. Cũng là cội nguồn của m.á.u và lửa, tình yêu và bi kịch.
Tinh linh khó lòng kháng cự được sức hấp dẫn của bảo thạch, cũng như lòng người khó mà cưỡng lại ma lực của Chiếc Nhẫn. Nhưng lúc này đây, giống như khi Galadriel từ chối cám dỗ của Chiếc Nhẫn Quyền Lực, Legolas cũng dứt khoát từ bỏ ý định để Tinh linh bảo thạch quay về Trung Địa.
“Assath, ta cầu xin ngươi,” ánh mắt anh chứa đựng thứ cảm xúc cô không hiểu nổi, “đừng mang bảo thạch trở lại Trung Địa. Hoặc chí ít... đừng để bất kỳ ai biết rằng nó đang nằm trong tay ngươi. Chúng đã biến mất sáu nghìn năm rồi. Xin hãy để chúng tiếp tục ngủ yên.”
Assath khẽ lẩm bẩm như ma quỷ thì thầm — dù bản thân cô lại chẳng cảm thấy mình giống quỷ chút nào:
“Ngươi không muốn à? Nhưng chẳng phải nó là báu vật của các ngươi sao? Chỉ cần ngươi mở miệng, ta liền tặng ngươi.”
Một khối năng lượng mà thôi, cô tặng nổi: “Dùng nó đổi lấy công thức làm Lembas có được không?”
Legolas: “...”
Trong mắt cô, Silmarils còn không đáng giá bằng một ổ bánh mì sao? Cô ấy rốt cuộc mê đồ ăn đến mức nào?
“Không, không cần đâu, Assath.” Lần đầu tiên Legolas cảm thấy dở khóc dở cười. “Cứ để nó biến mất đi. Công thức làm Lembas... ta sẽ nghĩ cách lấy cho ngươi.”
Assath gật đầu, cho rằng việc đó dễ như ăn cháo. Một khối đá năng lượng mà thôi, cô vẫn tiêu hóa nổi.
Cô há miệng, nuốt luôn viên bảo thạch trên tường vào bụng. Trong khoảnh khắc, ánh sáng trong long huyệt vụt tắt.
Tiên và rồng đưa mắt nhìn nhau, kẻ trước thì sững sờ không nói nên lời, kẻ sau thì thầm hối hận — lẽ ra nên dọn kho báu trước rồi mới nuốt, mà viên này cũng chẳng ngon gì, không bằng bánh mì.
Im lặng kéo dài thật lâu, cuối cùng Legolas mới nghẹn ra một câu: “Ngươi... có tiêu hóa được không?”
Assath gật đầu: “Tiêu hóa được.”
“Vì sao lại nghĩ đến việc nuốt nó?”
“Bản năng.” Assath cũng rất khó hiểu chuyện này. “Bản năng mách bảo ta đang thiếu một thứ... một viên đá tròn, phát sáng, có năng lượng, có thể nuốt vào bụng, rồi nhả ra lại.”
Cô không biết phải tìm thứ đó ở đâu, chỉ biết khi nhìn thấy bảo thạch, cô có chút... thèm ăn.
Legolas lẩm bẩm: “Rốt cuộc là viên đá quái quỷ gì vậy...”
Nhưng đây không phải lúc để bàn luận về đá. Anh nói: “Để ta về tra lại thần thoại sử thi xem có thứ gì tương tự không, giờ thì — ta cần ít dầu cá để thắp sáng.”
Bởi ánh sáng yếu quá, không tiện để đào kho báu trong hang.
Thế nhưng, khi hai người đứng trên lớp băng lớn, nhìn xuống làn nước biển sâu thẳm và lắng nghe tiếng sóng vỗ, Legolas như bị thứ gì đó mê hoặc, cứ thế đứng bất động mà nhìn ra đại dương xa xăm, tựa như linh hồn sắp bay mất.
Assath vung móng tát một cái, đập anh ngã rạp xuống băng, Tiên tộc lúc ấy mới bừng tỉnh.
Assath híp mắt nhìn anh: “Ngươi sợ biển à?”
Sợ thì càng phải vượt qua!
Assath lập tức đưa ra quyết định: Nếu đồng đội dám nói “ta sợ”, cô sẽ lập tức đá người đó xuống biển học bơi. Đương nhiên không phải cái biển lạnh ngắt này, cô cũng sợ bạn mình c.h.ế.t cóng.
Legolas khẽ đáp: “Không, ta không sợ biển... chỉ là... ta nghe thấy tiếng gọi của linh hồn, đến từ bờ bên kia của đại dương. Tiên tộc chúng ta định sẵn sẽ rời khỏi Trung Địa. Ta cũng sẽ đến Aman.”
“Và nếu có thể... ta hy vọng ngươi có thể cùng ta đi.”
Assath nói: “Ta sẽ bay qua đó.”
Tinh linh bật cười, vừa buộc dây vào mũi tên, vừa tìm cá lớn dưới nước:
“Ban đầu, tinh linh chúng ta sinh ra ở phía Đông của đại lục, nhưng Aman — miền đất của các Vala — lại nằm tận phía Tây. Các Vala khao khát chúng ta quay về, nên mới có cuộc hành trình vượt qua Trung Địa này.”
Assath châm chọc:
“Nếu thực sự khao khát các ngươi quay về, vậy tại sao không để các ngươi sinh ra ở phương Tây luôn cho tiện?”
“Không được thì Vala dọn cả Aman sang phía Đông cho rồi.”
Nếu là cô thì đã chẳng tự làm khó bản thân kiểu đó — cô chỉ tìm lý do từ phía Vala.
Legolas: “...”
Thôi, nói nữa cũng không đi đến đâu. Bất kể là “cho bảo thạch” hay “chuyển Aman sang phía Đông”, đều là mấy chuyện... c.h.ế.t tiệt mà không một tinh linh nào có thể từ chối được.
Legolas thở dài: “Thôi, vẫn nên đi bắt cá trước.”
Assath gật đầu, rồi lập tức lao xuống dòng nước băng giá. Chỉ chốc lát sau, đáy biển vang lên tiếng gầm của rồng bạc, mặt nước đang tĩnh lặng chợt dậy sóng, một bầy cá khổng lồ bị cô lùa lên, ào ào như thác đổ thẳng vào mặt đám tinh linh.
Đến khi rồng bạc ló đầu khỏi mặt nước, tinh linh đã bị cá đè ngập mặt.
Sau đó, Assath phun lửa rồng nướng cá, ăn hải sản cùng đám tinh linh. Bọn họ dùng dầu cá và quả thông làm đuốc tạm, rồi cùng nhau quay lại hang rồng, bắt đầu sàng lọc đống cổ thư ma pháp.
Phải nói rằng — Chúa tể Băng Giá có quá nhiều thứ tốt.
Legolas không chỉ tìm thấy cổ thư, mà còn tìm được những viên ngọc trai to bằng nắm tay, mỗi viên một màu, chất đầy trong một vỏ sò khổng lồ, tỏa sáng dịu nhẹ.
Ngoài ra, họ còn phát hiện cả đống kho báu, không thứ nào không đến từ tàu đắm hoặc vương quốc diệt vong. Nghĩ cũng đúng — những bi kịch đó chắc hẳn có bàn tay của Chúa tể Băng Giá nhúng vào. Họ còn tìm được nhiều vật dụng của pháp sư, trong đó có gậy phép và tinh thạch.
Nhưng kỳ lạ nhất lại là một chiếc tủ gỗ đã cũ, thoạt nhìn như món đồ tầm thường nhất trong cả kho báu.
Nhưng ai cũng biết — đồ của rồng thì không bao giờ là “đồ thường”. Quả nhiên, khi Legolas mở chiếc tủ ra, bên trong tràn ra vô số vàng bạc và cổ thư — rõ ràng đây là một không gian chứa đồ!
Assath ghé lại: “Cái gì đây? Sao chứa được lắm đồ thế?”
Đây là lần đầu tiên cô tiếp xúc với khái niệm “ma pháp không gian” — ...bắt đầu từ một chiếc tủ gỗ cũ.